Ngành chè và bài toán xuất khẩu
Mặc dù đang đứng thứ 7 thế giới về sản xuất và thứ 5 thế giới về xuất khẩu nhưng để thâm nhập sâu hơn vào các thị trường khó tính trên thế giới, đòi hỏi chất lượng chè của Việt Nam cần cao hơn.
Mặc dù đang đứng thứ 7 thế giới về sản xuất và thứ 5 thế giới về xuất khẩu song so với các nước trong khu vực, chè Việt đang có giá xuất khẩu thấp nhất, chỉ bằng 60 - 70% giá chè thế giới.
Chưa tương xứng với tiềm năng
Trong những tháng đầu năm 2018, chè là một trong những mặt hàng có sự giảm sút cả về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Số liệu từ Tổng cục Hải quan cho thấy, khối lượng xuất khẩu chè 3 tháng đầu năm đạt 25.000 tấn và giá trị kim ngạch 39 triệu USD, giảm 9,7% về lượng và 4,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2017.
Theo đó, Việt Nam đang là nước sản xuất chè lớn thứ 7 và có sản lượng xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới, với 124.000ha trồng chè và hơn 500 cơ sở sản xuất chế biến, công suất đạt trên 500.000 tấn chè khô/năm.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, chè Việt Nam xuất khẩu ở mức chưa cao do chất lượng sản phẩm chè còn thấp cũng như chưa có thương hiệu do đang chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô. Đa phần chè Việt vẫn chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường dễ tính, rất ít sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn xuất khẩu vào các thị trường yêu cầu chất lượng cao như EU hay Mỹ.
Theo ông Nguyễn Quốc Toản, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và phát triển thị trường nông sản, Bộ NN&PTNT, ngoài vấn đề cung vượt cầu, phẩm cấp chè Việt chưa cao, chưa có thương hiệu là lý do chính khiến bao năm qua chè Việt muốn ra nước ngoài vẫn phải “núp” dưới một cái tên khác.
Trả lời trên The Leader, ông Chu Xuân Ái, Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Phát triển công nghệ và thương mại Tôn Vinh cho rằng, rào cản kỹ thuật lớn nhất đối với các mặt hàng nông sản Việt trong đó có chè là chất lượng còn thấp, một số còn bị dư lượng thuốc trừ sâu, hóa chất hoặc kháng sinh. Bên cạnh đó, bản thân người dân còn nhìn vào cái lợi trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài làm tàn phá các vùng nguyên liệu chè; nhiều doanh nghiệp chế biến trong nước cũng không mặn mà với việc chế biến mà bán lại nguyên liệu cho thương lái Trung Quốc do nguồn lợi thu về quá cao.
Một số người địa phương thu gom chè, do hám lợi đã trộn cả búp cây cúc tần, búp cây chó đẻ, thậm chí còn hồ cả bùn loãng, mạt đá, xi-măng vào chè để tăng trọng lượng, làm ảnh hưởng xấu tới hình ảnh và thương hiệu chè đã gây dựng trong nhiều năm.
Cần chú trọng xây dựng thương hiệu ngành hàng
Theo bà Nguyễn Thị Ánh Hồng – Phó Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam, câu chuyện không chỉ là sản xuất được chè mà sản phẩm chè phải đạt tiêu chuẩn, chất lượng và an toàn. Để thâm nhập sâu hơn vào các thị trường khó tính trên thế giới, đòi hỏi chất lượng chè của Việt Nam cần cao hơn, đáp ứng đủ tiêu chuẩn của các nước.
Hiện nay, các nhà sản xuất chè Việt Nam vẫn được khách hàng quốc tế biết đến về khả năng cung cấp khối lượng lớn, giá rẻ và chất lượng xuất khẩu trung bình. Để thay đổi được hình ảnh này là một thách thức rất lớn đối với mỗi công ty sản xuất và xuất khẩu, và đối với cả ngành chè Việt.
Việc xây dựng thượng hiệu cho cả chè xuất khẩu thô và chè đóng gói của Việt Nam, TS. Lục Thị Thu Hường, Trường Đại học Thương Mại nhận định, đối với doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm thô, đóng gói bao lớn, chưa có thương hiệu sản phẩm, các doanh nghiệp chè nên tập trung vào thương hiệu doanh nghiệp, dưới góc độ là một đối tác chuyên nghiệp, thông thạo trên thị trường quốc tế, đảm bảo được độ tin cậy và khả năng cung ứng.
Còn với thương hiệu sản phẩm chè đóng gói, để có thể xuất khẩu được chè thành phẩm, đóng trong bao bì nhỏ, có thương hiệu của doanh nghiệp Việt, và phân phối được tới tay người tiêu dùng quốc tế thì đó là cả một chặng đường dài, cần rất nhiều nỗ lực và chi phí của doanh nghiệp xuất khẩu và của toàn bộ chuỗi cung ứng chè.
Theo bà Hường, cần có sự đầu tư nghiêm túc và kiên trì vào việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng chè. Đặc biệt là vấn đề dư lượng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, bởi đó là nguyên nhân chính làm cho chè Việt Nam chưa có uy tín trên thị trường thế giới. Cần tăng cường phổ biến kiến thức cho người trồng chè để có thể sản xuất ra những nguyên liệu tốt về chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Doanh nghiệp chế biến phải đảm bảo về công nghệ sản xuất, tiêu chuẩn chất lượng thành phẩm và bao bì đóng gói đẹp mắt, phù hợp với văn hóa tiêu dùng của từng thị trường xuất khẩu.
Ngoài ra, theo TS. Lục Thị Thu Hường, doanh nghiệp Việt phải tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị, phải tìm kiếm được các đối tác thương mại phù hợp ở từng thị trường nước sở tại. Với sự hỗ trợ đắc lực của các đối tác đó, doanh nghiệp phải tìm hiểu và nắm rõ được thị hiếu và xu hướng tiêu dùng của từng thị trường để có thể thiết kế, chế biến và đóng gói sản phẩm chè phù hợp.
Còn theo đại diện Hiệp hội Chè để phát triển thương hiệu chè Việt cần đẩy mạnh sản xuất và chế biến theo hướng an toàn và hữu cơ hóa, trong đó an toàn thực phẩm là một trong những yếu tố tháo gỡ được nút thắt cho xuất khẩu chè của Việt Nam.
Bên cạnh đó, đại diện Hiệp hội Chè cho rằng đẩy mạnh xuất khẩu là một chuyện nhưng cần tận dụng được phong cách và văn hóa uống trà trong chính thị trường trong nước để nâng cao hàm lượng giá trị gia tăng cho sản phẩm.
Khác với các quan điểm hiện nay trong chiến lược thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chè, ông Ái cho rằng, ngành chè cần mở rộng thị phần nội địa trong bối cảnh xuất khẩu đạt giá trị không cao.
Nha Trang
DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP
|