NHNN: Phấn đấu giảm lãi suất cho vay phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô
Tiếp tục điều hành các giải pháp nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, phấn đấu giảm lãi suất cho vay phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ.
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa công bố thông tin về tình hình điều hành chích sách tiền tệ (CSTT), hoạt động ngân hàng tháng 9 và định hướng những tháng cuối năm 2017.
Theo đó, về diễn biến tiền tệ, đến ngày 20/09/2017, tổng phương tiện thanh toán (M2) tăng 9.59% so với cuối năm 2016 (tăng 15.36% so cùng kỳ 2016), hỗ trợ kiểm soát lạm phát tiếp tục ổn định ở mức thấp, đảm bảo kiểm soát lạm phát CPI theo mục tiêu trong bối cảnh giá một số mặt hàng nhà nước quản lý được điều chỉnh.
Mặt bằng lãi suất được giữ ổn định và giảm mặc dù có sức ép tăng trong 6 tháng đầu năm 2017. Cụ thể, NHNN đã điều chỉnh giảm 0.5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa đối với các lĩnh vực ưu tiên, điều chỉnh giảm 0.25%/năm các mức lãi suất điều hành của NHNN. Bên cạnh đó, các TCTD cũng tích cực thực hiện giảm lãi suất cho các lĩnh vực sản xuất kinh doanh (SXKD) với lãi suất thấp hơn khoảng 0.5-1%/năm, giảm lãi suất một số chương trình cho vay trung dài hạn đối với lĩnh vực ưu tiên xuống còn khoảng 8%/năm (từ mức phổ biến 9-10.5%/năm trước đó), triển khai các gói tín dụng ngắn hạn và trung dài hạn đa dạng với lãi suất ưu đãi cho các ngành thiết yếu trong phát triển kinh tế và an sinh xã hội, áp dụng lãi suất cho vay ngắn hạn đối với khách hàng tốt khoảng 4-5%/năm. Đồng thời, các TCTD tiếp tục tiết giảm chi phí để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và NHNN. Hiện mặt bằng lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên ở mức: Ngắn hạn 6-6.5%/năm, trung và dài hạn 8-10.5%/năm; đối với SXKD thông thường, khoảng 6.8-9%/năm đối với ngắn hạn; 9.3-11%/năm đối với trung dài hạn.
Tín dụng đối với nền kinh tế liên tục tăng ngay từ những tháng đầu năm 2017 và tăng đều qua các tháng. Đến ngày 20/09/2017, tín dụng tăng 11.02% so với cuối năm 2016 - là mức tăng cao so với các năm gần đây (cùng kỳ năm 2016 tăng 10.46% và cùng kỳ năm 2015 tăng 10.78%). Cơ cấu tín dụng tập trung chủ yếu vào lĩnh vực SXKD, trong đó, tín dụng đối với một số ngành kinh tế trọng điểm và lĩnh vực ưu tiên tăng cao hơn so với mức tăng chung của toàn hệ thống.
Cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên đều tăng so với cuối năm 2016. Cụ thể, tín dụng nông nghiệp và phát triển nông thôn đến tháng 8/2017 đạt 1,222,267 tỷ đồng, tăng 17% so với cuối năm 2016, chiếm tỷ trọng khoảng 20.2% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; tín dụng cho lĩnh vực xuất khẩu đạt 207,001 tỷ đồng, tăng 8.14%; tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt 35,012 tỷ đồng, tăng 25.12%; tín dụng công nghiệp ưu tiên phát triển đạt 153,837 tỷ đồng, tăng 18.9%; tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 1,292,182 tỷ đồng, tăng 7.49%.
Tính đến 15/09, VAMC đã mua hơn 26,100 khoản nợ
Từ 01/01/2017 đến hết 15/09/2017, VAMC đã mua nợ của 14 TCTD với tổng dư nợ gốc nội bảng là 20,995 tỷ đồng, giá mua nợ là 20,619 tỷ đồng, đã đạt chỉ tiêu kế hoạch năm 2017 được Ngân hàng Nhà nước giao. Như vậy, tính từ 2013 đến thời điểm 15/09/2017, VAMC đã thực hiện mua được 26,108 khoản nợ của 16,197 khách hàng tại 42 TCTD, với tổng dư nợ gốc nội bảng là 296,550 tỷ đồng, giá mua nợ là 266,543 tỷ đồng.
Trong hoạt động thanh toán, tỷ trọng tiền mặt/tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế có xu hướng giảm dần, từ 19.02% năm 2005 xuống 14.02% năm 2010 và đến thời điểm 31/12/2016 là 11.49%; nhận thức và thói quen về sử dụng tiền mặt trong thanh toán đã có chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng nhiều người chọn hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thay cho thanh toán bằng dùng tiền mặt.
Thẻ ngân hàng tiếp tục phát triển, số lượng thẻ phát hành, số lượng và giá trị giao dịch thẻ tiếp tục tăng trưởng ổn định. Tính đến tháng 6/2017, số lượng thẻ phát hành lũy kế đạt mức trên 121.5 triệu thẻ. Đến nay, có trên 76 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán (TCCUDVTT) triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 39 TCCUDVTT cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. NHNN đã tập trung chỉ đạo phát triển thanh toán thẻ qua POS để nâng cao số lượng, giá trị giao dịch thanh toán qua POS.
Định hướng điều hành trong những tháng cuối năm 2017
Trong những tháng cuối năm 2017, NHNN tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp về tiền tệ, hoạt động ngân hàng nhằm kiểm soát lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Trong đó, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, lạm phát, hoạt động của hệ thống các TCTD, NHNN điều hành linh hoạt lượng cung tiền, sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD, xem xét điều chỉnh lộ trình áp dụng tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn để sử dụng cho vay trung, dài hạn phù hợp, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng và giảm áp lực thanh khoản, hỗ trợ các TCTD ổn định mặt bằng lãi suất huy động để phấn đấu giảm lãi suất cho vay.
Tiếp tục điều hành các giải pháp nhằm ổn định mặt bằng lãi suất, phấn đấu giảm lãi suất cho vay phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD chủ động cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh khoản; thực hiện các giải pháp tiết giảm chi phí hoạt động, nâng cao hiệu quả kinh doanh để tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, lĩnh vực SXKD.
Tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt trên cơ sở tham chiếu diễn biến thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường quốc tế, các cân đối kinh tế vĩ mô, tiền tệ, cán cân thanh toán và phù hợp với mục tiêu CSTT.
Phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để chủ động, linh hoạt điều hành các công cụ CSTT nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm thanh khoản hệ thống, cung ứng vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
Thực hiện các giải pháp và định hướng điều tiết tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở kiểm soát lạm phát, diễn biến kinh tế vĩ mô và hoạt động ngân hàng, hướng tín dụng tập trung vào các lĩnh vực SXKD, lĩnh vực ưu tiên; hạn chế tập trung tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành nhằm tháo gỡ khó khăn và triển khai các chương trình tín dụng ngành, lĩnh vực...
Anh Tuấn
Fili
|