Ngành than: Đối mặt với hàng loạt khó khăn và các giải pháp “cán đích”
Là một trong những ngành năng lượng trọng điểm của quốc gia, nhưng 7 tháng đầu năm nay, Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) đang phải đối mặt với một loạt khó khăn như thuế phí tăng cao, điều kiện khai thác ngày càng khó khăn, lợi nhuận giảm, xuất khẩu giảm…
Sản lượng tiêu thụ, sản xuất, doanh thu đồng loạt giảm
Theo báo cáo của TKV, năm 2016, sản lượng than trong nước sản xuất-tiêu thụ đang có xu hướng giảm so với cùng kỳ.
Cụ thể, 7 tháng đầu năm 2016, TKV sản xuất được 22,06 triệu tấn than nguyên khai, bằng 93% so với cùng kỳ năm 2015, tiêu thụ được 20,25 triệu tấn than sạch, bằng 97% so với cùng kỳ năm 2015. Trong đó, than tiêu thụ trong nước đạt 19,7 triệu tấn, bằng 98% so với cùng kỳ năm 2015; than xuất khẩu đạt 248.000 tấn, bằng 30% so cùng kỳ năm 2015.
Các con số trên cho thấy, 7 tháng vừa qua, ngành than găp nhiều khó khăn so với năm ngoái khiến sản lượng tiêu thụ giảm 3%, sản xuất giảm 7%, doanh thu giảm 15%. Do tiêu thụ giảm, cho nên sản lượng than khai thác dự kiến cả năm TKV sản xuất 33 triệu tấn than sạch, giảm khoảng 2 triệu tấn so với năm 2015 (thấp hơn 3-5 triệu tấn so với quy hoạch).
Theo ông Nguyễn Văn Biên, Phó Tổng Giám đốc TKV, nguyên nhân của việc sụt giảm này là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, suy giảm kinh tế, nhu cầu chậm lại, trong khi năng lực sản xuất nhiều nước còn cao khiến giá than giảm mạnh và than nhập khẩu về Việt Nam tăng (7 tháng đầu năm đã nhập khẩu trên 8 triệu tấn, chiếm hơn 1/4 thị trường Việt Nam).
Đặc biệt, đầu năm 2016, nhu cầu của nhiều nước giảm trong đó Trung Quốc đã giảm 280 triệu tấn và nhiều nước phải điều chỉnh giảm thuế để ổn định sản xuất, việc làm, đời sống cho công nhân mỏ.
Dẫn số liệu từ biểu thuế suất thuế tài nguyên đối với than của một số quốc gia, ông Nguyễn Văn Biên cho biết, hiện nay, thuế tài nguyên tại Australia là 2-15%, trung bình với than khai thác lộ thiên là 7%, than hầm lò là 6% và không áp dụng thuế xuất khẩu than. Còn với Indonesia thì thuế tài nguyên đối với than từ 3-7% và tại Trung Quốc là từ 0-4%...
Trong khi đó ở nước ta, từ tháng 7/2010, thuế suất thuế tài nguyên đối với than anthracite hầm lò được điều chỉnh tăng từ 2% lên 5%, than anthracite lộ thiên tăng từ 3% lên 7%. Từ đầu năm 2014, thuế suất tiếp tục điều chỉnh tăng tương ứng lên 7% và 9% và đến ngày 1/7/2016, thuế suất thuế tài nguyên một lần nữa được điều chỉnh tăng tương ứng lên 10% và 12%. Nếu tính cả tiền cấp quyền khai thác (2%) thì than hầm lò phải chịu mức thuế tài nguyên là 12% và than lộ thiên phải là 14%.
“Như vậy, chỉ tính riêng thuế tài nguyên của Việt Nam đã cao hơn 7-10% so với các nước trong khu vực, trong khi thuế xuất khẩu than của nhiều nước 0%, thuế nhập khẩu than vào Việt Nam hiện nay là 0%. Vì vậy, than các nước bán vào Việt Nam tăng nhanh đã gây sức ép lên thị trường tiêu thụ than trong nước”, ông Nguyễn Văn Biên cho biết.
Bên cạnh những khó khăn khách quan, lãnh đạo TKV còn cho biết ngành than đang đối mặt với điều kiện khai thác ngày càng xuống sâu và xa hơn làm tăng hệ số bóc đất, tăng cung độ vận chuyển, các mỏ hầm lò từ mức +0 so với mức nước biển đã xuống -300m đến -500 m, áp lực mỏ lớn, khí, nước nhiều... làm cho chi phí thông gió, thoát nước, vận tải tăng cao...
Lý giải về việc doanh thu giảm nhanh hơn sản lượng, ông Nguyễn Văn Biên cho biết, than xuất khẩu của TKV giảm, bằng 30% so với cùng kỳ vì cuối tháng 4/2016 Chính phủ mới có văn bản cho phép xuất khẩu than chất lượng cao mà trong nước không sử dụng cho nên các khách hàng lớn đã chuyển sang ký hợp đồng mua than của nước khác.
Áp dụng đồng loạt nhiều giải pháp
Trước những khó khăn trên, lãnh đạo TKV cho biết, Tập đoàn đã chủ động áp dụng nhiều giải pháp như: Tái cơ cấu, hoàn thiện quản lý, điều hành sản xuất hợp lý, nâng cao năng suất lao động và tiết giảm chi phí. Chỉ tính riêng từ năm 2015 đến hết tháng 6/2016 đã giảm lao động từ 121.000 người xuống còn 115.000 người; đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa, tự động hóa trong khai thác, nếu loại trừ yếu tố khách quan (do xuống sâu, thuế phí, giá cả...) thì giá thành các năm 2011-2015 giảm khoảng 1,5%/năm.
Về vấn đề thuế, phí, ông Biên cho rằng, ngành than rất cần có sự chia sẻ, thấu hiểu của các nhà làm chính sách để bảo đảm lợi ích hài hòa giữa nộp ngân sách, lợi nhuận để đầu tư phát triển doanh nghiệp như ngành mỏ các nước khác đã thực hiện nhiều năm nay. Vì vậy, cần sớm điều chỉnh thuế, phí tương đương với các nước trong khu vực để cạnh tranh giữ vững thị trường và năng lực sản xuất.
Đặc biệt, về việc xuất khẩu than chất lượng cao, ông Biên cũng kiến nghị, thực tế các năm 2015, 2016 đã xác định các chủng loại than trong nước chưa dùng hết là than cục, than cám chất lượng cao (chủ yếu dùng cho luyện kim, hóa chất...). Vì thế, Nhà nước cần xem xét quyết định sớm từ cuối năm trước hoặc có cơ chế xuất khẩu cho cả giai đoạn 5 năm để ngành than chủ động điều hành sản xuất, ổn định việc làm cho người lao động, phát huy hiệu quả hợp đồng xuất khẩu than dài hạn để vay vốn ưu đãi...
Phan Trang
chính phủ
|