CPH Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam, bán 40% vốn cho nhà đầu tư chiến lược
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Phương án cổ phần hóa Công ty mẹ - Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor) bằng hình thức bán bớt một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp và kết hợp phát hành thêm cổ phiếu tăng vốn điều lệ.
Theo đó phương án, vốn điều lệ của Vinafor sau phát hành dự kiến là 3,500 tỷ đồng, tương ứng 350 triệu cổ phần. Trong đó nhà nước (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đại diện sở hữu) sẽ nắm 51% vốn điều lệ, tương đương 178.5 triệu cp. Cổ phần đấu giá công khai cho các nhà đầu tư thông thường là 24,342,700 cp, chiếm 6.955% vốn điều lệ. Cổ phần bán ưu đãi cho người lao động doanh nghiệp là 6,997,300 cp, chiếm 2% vốn điều lệ. Cổ phần bán cho Công đoàn Vinafor là 160,000 cp, chiếm 0.045% vốn điều lệ. Cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược sẽ là 140 triệu cp, chiếm 40% vốn điều lệ.
Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định tiêu chí và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược theo quy định của pháp luật hiện hành. Việc bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược thực hiện theo quy định của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần; Nghị định số 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP.
Thời gian bán cổ phần trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày phương án cổ phần hóa được phê duyệt. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ Thủ tướng ủy quyền cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quyết định và chịu trách nhiệm về mức giá khởi điểm bán đấu giá, chỉ đạo Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam tổ chức, triển khai bán cổ phần ra công chúng.
Cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam - Công ty cổ phần chỉ đạo thực hiện việc đăng ký giao dịch và niêm yết cổ phiếu của Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam - Công ty cổ phần theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 Quyết định 51/2014/QĐ-TTg ngày 15/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ về một số nội dung về thoái vốn, bán cổ phần và đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước.
Về phương án sắp xếp lao động, tổng số lao động có tên trong danh sách người lao động thường xuyên tại thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp là 1,076 người; tổng số lao động chuyển sang CTCP là 771 người; tổng số lao động không chuyển sang CTCP là 305 người.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được Thủ tướng yêu cầu chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chỉ đạo Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam rà soát phương án sắp xếp lao động, xác định số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi, phương án chia số dư các quỹ trên (nếu có) theo quy định và thực hiện chế độ đối với người lao động không chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần theo đúng chế độ nhà nước quy định. Nguồn kinh phí chi trả cho người lao động không chuyển sang làm việc tại công ty cổ phần thực hiện theo quy định hiện hành, trường hợp quỹ hỗ trợ mất việc làm của doanh nghiệp thiếu thì sử dụng từ nguồn thu bán vốn nhà nước.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết định dự toán và phê duyệt quyết toán chi phí cổ phần hóa, Vinafor quyết định và chịu trách nhiệm về các chi phí thực tế cần thiết để thực hiện cổ phần hóa Tổng Công ty theo quy định hiện hành.
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chỉ đạo Tổng công ty phối hợp với UBND các tỉnh, thành phố nơi có đất Tổng Công ty đang sử dụng, thực hiện rà soát, đo, đạc, cắm mốc, xác định ranh giới, hoàn thành thủ tục thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đơn vị thuê đất theo quy định. Kinh phí thực hiện sẽ được trừ vào nguồn thu từ bán vốn nhà nước.
Bên cạnh đó, tiền thu được từ bán cổ phần sau khi giảm trừ các khoản theo quy định, phần còn lại Công ty mẹ - Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam có trách nhiệm nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp theo quy định hiện hành.
Về đất đai, Vinafor tiếp tục quản lý, sử dụng diện tích đất theo phương án sản xuất kinh doanh tại 12 thành thành phố là 43,449.6 ha, gồm: 43,400.7 ha đất nông nghiệp và 48,795 ha đất phi nông nghiệp, còn lại 48,934 ha diện tích chuyển giao về địa phương quản lý./.
|