An ninh tài chính trong thanh toán thương mại với Trung Quốc
Quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc đã và đang phát triển rất mạnh, với tốc độ tăng bình quân tới 2 con số trong vòng gần 10 năm liên tục vừa qua, đưa tổng kim ngạch từ dưới 40 triệu USD/năm những năm cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước lên trên 60 tỷ USD vào năm 2014.
Tiến sĩ Nguyễn Đại Lai. (Ảnh do tác giả cung cấp)
|
Tuy nhiên, quá trình gia tăng này có phần hàm chứa những bất ổn về lợi thế so sánh trong cán cân thương mại song phương nói chung và trong thanh toán nói riêng.
Dưới đây là bài viết của tiến sĩ Nguyễn Đại Lai, chuyên gia kinh tế trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, bàn về an ninh tài chính trong thanh toán thương mại song phương Việt-Trung.
Bài toán thiếu hụt ngoại tệ từ nhập siêu
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2014, tổng kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng từ Trung Quốc ước tính đạt 43,7 tỷ USD, tăng 18,2% so với năm 2013, cho thấy chênh lệch thương mại ròng giữa Việt Nam và Trung Quốc hiện nay đã rất lớn.
Nhập siêu từ thị trường này đã lên tới 28,9 tỷ USD trong năm 2014, tăng 21,8% so với năm trước, đưa mức nhập siêu lên tới 46,5% tổng kim ngạch xuất nhập giữa hai nước.
Trong khi xuất siêu của cả nước trong năm 2014 đạt 2 tỷ USD mức cao nhất kể từ năm 2012, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu 17 tỷ USD, cao hơn mức 13,7 tỷ USD của năm 2013, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu lại 15 tỷ USD, cao hơn mức 13,7 tỷ USD của năm ngoái.
Để thanh toán phần nhập siêu này, Việt Nam không thể dùng VND để trả tiền hàng cho phần nhập siêu ròng này, mà nhất thiết phải trả bằng ngoại tệ mạnh có được từ mọi nguồn khác có thể. Đây là bất lợi rất lớn và phải sớm khắc phục.
Thương nhân và khách du lịch Trung Quốc qua cửa khẩu Tân Thanh, Lạng Sơn. (Ảnh: Trọng Đức/TTXVN)
|
Ngoài ra, hiện trạng trên có thể gây ra các biến thái tiêu cực khác, gây mất an ninh kinh tế và an ninh trong thanh toán để tạo tiền thanh toán hàng nhập siêu với Trung Quốc, như thẩm lậu đồng nhân dân tệ vào Việt Nam bằng cách “chảy” vàng đi hoặc phải đánh đổi lợi thế đầu tư, đánh đổi tài nguyên trong thế bị ép giá…
Chiến lược lợi thế hai chiều
Về kỹ thuật, Mỹ và nhiều quốc gia công nghiệp phát triển (trong đó có Trung Quốc) cả chục trở lại đây năm đã và đang chủ động thực hiện chính sách đồng tiền yếu nhằm đẩy hàng hóa xuất khẩu qua bên ngoài.
Cụ thể, những năm 1990 Trung Quốc đã phá giá rất mạnh đồng nhân dân tệ từ khoảng 4,7832 CNY/USD (nhân dân tệ/đô la Mỹ) lên đến 8,6212 CNY/USD vào năm 1994, phá giá tới 80,2% chỉ trong vòng 4 năm. Sau đó, đồng nhân dân tệ lại lên giá dần dần và rất chậm, đến tháng 12/2005 là 8,0702 CNY/USD. Qua đó, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc tranh thủ chiếm lĩnh các thị trường xuất khẩu với hàng hóa giá rẻ, tỷ trọng giá trị gia tăng thấp để “phủ sóng” khắp thế giới.
Đến những năm gần đây, khi Trung Quốc tạo được khối dự trữ ngoại tệ mạnh khổng lồ và nhất là từ khi qui mô kinh tế của nước này đã soán ngôi vị thứ hai thế giới của Nhật Bản vào năm 2010 đến nay, thì quốc gia này lại có xu hướng tăng giá đồng nhân dân tệ, tháng 12/2011 tỷ giá này đã là 6,3233 CNY/USD, đến nay tỷ giá ghi nhận vào cuối năm 2014 này vẫn biểu hiện giá trị khá cao ở mức 6,14 CNY/USD.
Với chiến lược “so le” sử dụng lợi thế so sánh hai chiều, Trung Quốc đã lợi dụng được đồng bản tệ trong việc tạo ra lợi nhuận “khủng” từ thời kỳ xuất khẩu hàng hóa mạnh từ những năm 90 trước đây cũng như thời kỳ xuất khẩu tư bản và nhập hàng đẳng cấp cao về tiêu thụ trong nước như hiện nay.
Quay lại với đồng nội tệ, trong thời gian qua VND chủ yếu chỉ lên xuống theo đồng USD, nên về căn bản Việt Nam cũng bị thiệt hại tương tự những gì mà các nước sử dụng đồng USD gặp phải trong quan hệ ngoại thương với Trung Quốc (thiệt hại từ nhập siêu và thiệt hại hơn nữa ở hoạt động bán hàng thô giá rẻ, trong đó thiệt lớn nhất lại từ nguồn vốn FDI từ Trung Quốc).
Nguyên tắc chỉ dùng đồng bản tệ
Hiện nay, vấn đề an ninh thương mại và an ninh thanh toán giữa Việt Nam và Trung quốc hiện rất khó kiểm soát, do vị thế địa lý sát nhau đồng thời các thói quen thanh toán tiền mặt thông qua “chợ tiền” cá nhân mọc lên như nấm dọc biên giới hơn là qua hệ thống các ngân hàng thương mại. Thêm vào đó, kim ngạch buôn bán tiểu ngạch cũng chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng kim ngạch thương mại.
Hải quan kiểm tra hàng nhập khẩu qua cửa khẩu Tân Thanh. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
|
Theo số liệu từ Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) công bố, thanh toán thương mại quốc tế bằng đồng nhân dân tệ hiện đạt 3,16 nghìn tỷ CNY (tương đương 515 tỷ USD ). Tuy nhiên, con số này thực ra mới bằng 0,6% GDP toàn cầu, ước tính đạt 85.500 tỷ USD năm 2014.
Song, nếu nhìn trên quy mô toàn cầu từ số liệu chính thức của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS), đồng nhân dân tệ mặc dù đã lọt vào danh sách 10 loại tiền tệ hàng đầu trong thị trường ngoại hối quốc tế, nhưng nó vẫn chỉ chiếm 2,2% trên tổng giá trị giao dịch toàn cầu và vẫn đứng sau peso của Mexico với 2,5 % thị phần.
Trong khi đó, tỷ trọng này của USD trong giao dịch ngoại hối thế giới đã tăng từ 85 % năm 2010 lên 87% tổng giá trị giao dịch quốc tế vào năm 2013, nghĩa là vị thế của USD trong thanh toán quốc tế vẫn cao hơn vị thế của đồng nhân dân tệ tới gần 40 lần.
Vậy. để đảm bảo an ninh tài chính trong thanh toán thương mại với Trung Quốc, Việt Nam phải có chiến lược trong trao đổi thương mại hai chiều, tiến tới chỉ dùng tiền thanh toán của hai bên theo nguyên tắc dựa vào tỷ giá so sánh với đồng tiền qui ước quyền rút vốn đặc biệt (Special Drawing Rights) của IMF. Hiện nay trong “rổ” tiền tệ phi quốc tịch qui ước này vẫn chỉ có mặt của 4 đồng tiền mạnh được IMF đồng ý cho tham gia theo cơ cấu: bảng Anh-GBP 11%; yên Nhật-JPY 11%; EUR 34% và USD 44%.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần nhanh chóng thiết lập cân bằng cán cân thương mại song phương trên cơ sở cạnh tranh bằng chất lượng hàng hóa tiêu dùng và tiến tới hầu như chỉ thanh toán bằng bản tệ của mỗi bên. Theo đó, ngân hàng trung ương của hai quốc gia cần sớm ký văn bản Thỏa ước và hoặc Hiệp định trao đổi tiền tệ thông qua qui chế mua tiền của nhau theo tỷ giá qui chiếu theo đồng tiền phi quốc tịch SDRs theo từng thời gian và dựa trên năng lực xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc.
Ngoài ra, Việt Nam cần phải có chiến lược kinh tế kết hợp hài hòa lợi ích giữa hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu theo hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu các sản phẩm mà Việt Nam có lợi thế so sánh và chỉ nhập các sản phẩm mà Việt Nam không hoặc chưa có lợi thế so sánh để đảm bảo an ninh kinh tế nói chung và an ninh thanh toán nói riêng.
Một điểm nữa cần phải nhấn mạnh, đó là việc hiện đại hóa công nghệ thanh toán cùng với quá trình xây dựng thương hiệu mạnh cho VNĐ trong quan hệ thanh toán song phương, bình đẳng với đồng nhân dân tệ. Theo đó, giao dịch thương mại cần thực hiện nguyên tắc chỉ dùng bản tệ của từng bên nhờ hoán đổi tiền tệ hai chiều và tiến tới không dùng ngoại tệ thứ ba để thanh toán thương mại với Trung Quốc.
Nguyễn Đại Lai
vietnam+
|