“Hổng” từ quy hoạch, đầu tư đến vận hành
Với số lượng dự án thủy điện (TĐ) vào hàng nhiều nhất miền Trung - Tây Nguyên, tỉnh Quảng Nam cũng chịu rất nhiều hệ lụy về đời sống - xã hội - môi trường. Quá trình từ quy hoạch đến đầu tư xây dựng, vận hành các TĐ đều xảy ra nhiều sai sót.
Các thuỷ điện tạo thành “dòng sông chết” ngay sau hồ chứa
|
“Phủ sóng” thủy điện
Nhìn lại quá trình đầu tư vào TĐ ở Quảng Nam, sự sai sót lại xảy ra ở ngay trong quá trình quy hoạch. Mặc dù pháp luật quy định HĐND tỉnh là cơ quan quyết định quy hoạch TĐ trên địa bàn tỉnh, làm cơ sở pháp lý để UBND tỉnh triển khai thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế, UBND tỉnh đã “cầm đèn chạy trước ôtô”, tự quyết định phê duyệt quy hoạch mạng lưới TĐ và cho phép triển khai xây dựng nhiều TĐ từ những năm 2005 - 2006, đến năm 2010, UBND tỉnh mới trình HĐND tỉnh thông qua quy hoạch TĐ. Ban đầu, quy hoạch của tỉnh có đến 58 dự án TĐ, hầu hết các con sông tại 8 huyện miền núi đều phải “gánh” trên mình từ vài đến hàng chục TĐ.
Việc quy hoạch xây dựng mạng lưới TĐ “phủ sóng” khắp núi rừng, sông suối một cách thiếu thận trọng và tầm nhìn tổng thể, tất yếu sẽ xảy ra những hậu quả bất cập, khiến các tổ chức môi trường, kể cả Sở TNMT cũng cảnh báo nguy cơ ảnh hưởng nặng nề đến môi trường, sinh cảnh động thực vật, rừng.... Cả Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh cũng phải nhiều phen xét lại. 6 dự án xâm hại vào các khu bảo tồn thiên nhiên Ngọc Linh, Sông Tranh bị loại bỏ. Hàng loạt dự án khác khi quy hoạch và chủ đầu tư xin nghiên cứu triển khai đều chạy theo phong trào, sau đó vì không khả thi, nên đành “bỏ của chạy lấy người”. Từ con số ban đầu 58 dự án, rút xuống đến nay còn 44 dự án, tổng công suất hơn 1.500MW. Trong đó, 11 TĐ đã phát điện với tổng công suất 719MW, 11 TĐ đang triển khai với tổng công suất 700MW. Trong số dự án TĐ này, có 10 TĐ bậc thang trên hệ sông Vu Gia - Thu Bồn với tổng công suất 1.141MW do Bộ Công Thương lập, thẩm định và phê duyệt, tỉnh chỉ có ý kiến tham gia. Còn lại 34 TĐ vừa và nhỏ với tổng công suất 437MW do tỉnh lập, phê duyệt. Trong số này, nhiều dự án TĐ chỉ có công suất một vài kilowatt.
Lỗ hổng trong quản lý
Ông Võ Thí - Trưởng phòng Điện năng, Sở Công Thương tỉnh - cho biết: “TĐ vừa và nhỏ thì tỉnh có tham gia quản lý thi công, xây dựng, nhưng cũng chỉ là trên hồ sơ, giấy tờ, tiến độ thi công, còn về chất lượng xây dựng... thì tỉnh cũng không thể kiểm định vì không đủ điều kiện về con người, thiết bị...”.
Các dự án TĐ được triển khai thời gian qua đã có quá nhiều sai lầm, vướng mắc, tác động xấu đến đời sống người dân, môi trường, nguyên nhân bắt nguồn từ sự trục lợi của chủ đầu tư. Khi lập các dự án đầu tư TĐ trên hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn, các chủ đầu tư “hót” lên nhiều mục tiêu, như ngoài tạo ra nguồn điện năng, tăng thu ngân sách, còn điều tiết dòng chảy, cắt, giảm và làm chậm lũ vào mùa mưa, bổ sung dòng chảy vào mùa khô, góp phần giải quyết lao động tại địa phương.... Nhưng thực tế, tính đa mục tiêu này đã không đạt được. Các chủ đầu tư đều lấy hiệu quả phát điện đem lại lợi ích kinh tế là chính nên chỉ xả nước vận hành máy phát điện trong từng thời điểm và từng giai đoạn nhất định, chưa quan tâm đến nguồn nước vì lợi ích chung, nên đã xảy ra tình trạng thiếu nước và mặn thâm nhập sâu vào nội đồng trong mùa khô, lũ chồng lên lũ vào mùa mưa, như các TĐ A Vương, Sông Bung 4, Sông Bung 2... Ông Nguyễn Minh Tuấn - Chi cục trưởng Thủy lợi kiêm Chánh Văn phòng Ban PCLB tỉnh - nói: “Mất một diện tích hơn chục ngàn hécta đất rừng phòng hộ, rừng nguyên sinh cho các dự án TĐ, nhưng đến nay việc trồng lại rừng thay thế hầu như chưa được các chủ đầu tư TĐ thực hiện”.
Mặc dù tỉnh Quảng Nam đã quyết định tạm dừng tất cả các dự án chưa triển khai để rà soát, xem xét lại, nhưng những TĐ đã và đang thực hiện cũng đã quá đủ để đem lại quá nhiều hệ lụy nặng nề và khó lường.
Trương Tâm Thư
lao động
|