Chủ Nhật, 22/07/2012 21:56

Nợ xấu là của cả nền kinh tế

 “Nói nợ xấu của hệ thống ngân hàng là chưa chính xác, mà đây chính là nợ xấu của DN, của nền kinh tế, còn hệ thống ngân hàng chỉ là nơi hứng chịu, giữ hộ DN khối nợ xấu đó”, ông Trần Minh Hải, Giám đốc điều hành Công ty Luật BASICO chia sẻ quan điểm khi trao đổi với ĐTCK.

Con số nợ xấu của hệ thống ngân hàng vừa được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố nhận được nhiều ý kiến của mọi thành phần trong xã hội. Ông có bình luận gì về vấn đề này?

Thời gian qua, dư luận xã hội có vẻ hơi quá khắt khe và có phần phiến diện khi đánh giá về hoạt động ngân hàng. Vấn đề nợ xấu cũng vậy, xã hội chỉ biết đổ lỗi cho hệ thống ngân hàng. Như vậy là không khách quan và không chính xác. Mà khi chưa có cái nhìn chính xác về bản chất, nguồn gốc nợ xấu, thì cũng khó có thể đưa ra được giải pháp đúng để xử lý nợ xấu.

Theo tôi, một mình ngân hàng không thể tạo ra nợ xấu, bởi trong quan hệ tín dụng, ngân hàng chỉ là bên cho vay; còn việc sử dụng vốn vay thế nào, có hiệu quả hay không lại tùy thuộc vào bên đi vay, đó là DN. Bản thân các DN cũng rất muốn sử dụng đồng vốn an toàn, hiệu quả; làm sao để đồng vốn có khả năng sinh lời cao. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan là khó khăn, biến động bất thường của kinh tế trong và ngoài nước, một số rủi ro về mặt chính sách vĩ mô khiến hoạt động của DN không được như mong muốn. DN hoạt động không hiệu quả nên không có tiền để trả nợ và lãi ngân hàng, từ đó phát sinh nợ xấu cao nhiều hơn so với thời điểm khác. Thực tế, tại nhiều quốc gia trên thế giới cũng vậy, khi nền kinh tế rơi vào khó khăn, khủng hoảng, nợ xấu của hệ thống ngân hàng thường có xu hướng tăng cao và tăng nhanh.

Vì vậy, nói nợ xấu của hệ thống ngân hàng là chưa chính xác, mà đây chính là nợ xấu của DN, của nền kinh tế, còn hệ thống ngân hàng chỉ là nơi hứng chịu, giữ hộ DN khối nợ xấu đó.

Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là các ngân hàng không có lỗi. Nếu các ngân hàng tuân thủ nghiêm các quy định, quy trình cấp tín dụng, kiểm tra sát sao việc sử dụng vốn của khách hàng..., thì sẽ hạn chế được nhiều nợ xấu.

Có ý kiến cho rằng, nợ xấu hiện nay là không quá đáng lo, khi theo NHNN, các khoản nợ xấu đều được trích lập dự phòng rủi ro đầy đủ. Hơn nữa, giá trị tài sản đảm bảo của các khoản nợ xấu bằng 135% giá trị của các khoản nợ xấu? Ý kiến của ông như thế nào?

Về lý thuyết là như vậy, nhưng trên thực tế cũng còn rất nhiều vấn đề.

Thứ nhất, hiện con số nợ xấu theo công bố của NHNN lớn hơn rất nhiều (202.000 tỷ đồng, chiếm 8,6% tổng dư nợ), gấp gần 2 lần con số thống kê của các tổ chức tín dụng (117.000 tỷ đồng, chiếm 4,47% tổng dư nợ). Điều đó cho thấy, không ít tổ chức tín dụng (TCTD) không minh bạch, thậm chí cố tình che giấu nợ xấu. Khoảng 85.000 tỷ đồng không được các TCTD đưa vào nợ xấu, cũng có nghĩa chừng ấy nợ xấu chưa được trích lập dự phòng rủi ro. Đó là chưa kể việc phân loại nợ xấu của Việt Nam hiện nay còn cách khá xa so với chuẩn quốc tế, chủ yếu dựa vào các định lượng về số ngày quá hạn trả nợ đơn thuần, nên chưa chính xác.

Thứ hai, giá trị tài sản đảm bảo được tính tại thời điểm nào? Theo như tôi hiểu thì các TCTD thường “áng chừng” tại thời điểm phát sinh món nợ, tức là trước thời điểm món nợ ấy chuyển thành nợ xấu một khoảng thời gian khá dài. Như vậy, đến nay, giá trị tài sản đó có thể đã không còn như tính toán ban đầu. Hơn thế, đa phần tài sản đảm bảo là bất động sản, trong khi chỉ tính từ đầu năm đến nay, giá nhiều loại bất động sản đã giảm tới 30 - 40%.

Thứ ba, việc xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ rất phức tạp. Mặc dù pháp luật cho phép ngân hàng được quyền trực tiếp nhận tài sản về hoặc bán tài sản cho bên thứ ba hoặc nhận trực tiếp tài sản khấu trừ nợ, nhưng trên thực tế, ngân hàng không thể trực tiếp làm được điều đó, bởi pháp luật quy định là phải sang tên qua thủ tục công chứng. Trong khi để công chứng được, theo quy định của Bộ luật Dân sự, hợp đồng mua bán tài sản phải là chủ tài sản hoặc chủ tài sản ủy quyền. Song nhiều chủ tài sản cố tình gây khó khăn, không chịu bàn giao tài sản hoặc không ủy quyền cho ngân hàng, thậm chí họ còn phản đối. Do vậy, bế tắc và cuối cùng ngân hàng phải làm cái việc bất đắc dĩ là đưa nhau ra tòa, mất rất nhiều thời gian (có thể vài năm) và chi phí.

Vậy theo ông, cần có giải pháp gì để xử lý khối nợ xấu này?

Là nợ xấu của cả nền kinh tế nên cần có sự chung tay của toàn bộ nền kinh tế, kể cả Nhà nước, chứ không thể “phó mặc” cho các ngân hàng tự lo. Trong bối cảnh hiện nay, giải cứu DN chính là giải pháp tốt nhất để giải cứu nợ xấu.

Theo đó, về mặt chính sách vĩ mô, bên cạnh các giải pháp hỗ trợ trực tiếp cho DN như các giải pháp giãn, giảm, miễn thuế vừa qua, Nhà nước cần có giải pháp tăng sức cầu của nền kinh tế. Khi cầu đầu tư, tiêu dùng tăng sẽ khơi thông được đầu ra cho sản xuất - kinh doanh. Đặc biệt, cần xem xét miễn thuế thu nhập cá nhân cho cán bộ, công chức, người lao động trong một thời gian để kích thích sức mua.

Về phía ngân hàng, có thể lựa chọn các DN tốt để hỗ trợ với cơ chế ưu đãi lãi suất để giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm, nhằm kích thích sức mua. Với những DN có thể tồn tại, phát triển, thì ngân hàng nên kịp thời bơm vốn để thúc đẩy sản xuất - kinh doanh.

Về phía DN, cần cơ cấu lại hoạt động của mình để tiết giảm chi phí, giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh... Tuy nhiên, thị trường thực sự không cần sự tồn tại của những DN quá yếu. Do vậy, cơ chế phá sản, giải thể DN cần được mạnh dạn áp dụng. Ở đây, cần nhìn nhận việc phá sản của DN là một vấn đề bình thường trong nền kinh tế thị trường. Sự phá sản của một DN yếu sẽ tạo điều kiện cho những DN còn lại, cũng như những DN mới ra đời.

Ngoài ra, ngành tòa án nên có cơ chế phối hợp, hỗ trợ ngành ngân hàng trong việc xử lý tài sản thế chấp. Loại bỏ những nhận thức xung đột về khía cạnh hình thức của giao dịch bảo đảm trong thời gian qua để xử lý bản chất giao dịch theo hướng cho phép ngân hàng nhanh chóng xử lý tài sản để thu hồi nợ.

Thời gian qua xuất hiện hiện tượng cho vay đảo nợ. Theo ông, liệu đây có phải là giải pháp để cứu nợ xấu?

Cứu theo nghĩa làm sạch bảng cân đối tài sản của các TCTD thì có thể, chứ xử lý dứt điểm nợ xấu thì không. Đó là chưa kể những rủi ro tiềm ẩn là rất lớn, do sự thiếu minh bạch về thông tin. Các tổ chức, DN quốc tế nhìn vào Việt Nam sẽ khó phân biệt được thực giả về tình trạng nợ xấu.

Ông có thể phân tích rõ hơn vấn đề này?

Đảo nợ tức là cho vay mới để trả nợ cũ. Như vậy, tổng dư nợ không thay đổi, song thời điểm phát sinh khoản vay có thay đổi, kéo theo thời điểm trả nợ cũng thay đổi. Do đó, có những khoản nợ nếu để nguyên sẽ phải xếp vào nợ quá hạn, nợ xấu; nhưng vì cho vay đảo nợ nên thành nợ nhóm 1. Nghĩa là bảng cân đối tài sản của các TCTD sẽ “sạch sẽ” hơn và các TCTD cũng không phải trích lập dự phòng rủi ro cho món nợ này, giúp cải thiện các con số về lợi nhuận.

Song việc làm này tiềm ẩn khá nhiều rủi ro. Thời gian qua, có một số ngân hàng tìm đến công ty luật, do họ gặp phải những vấn đề trong quá trình cho vay đảo nợ. Thông thường, khi cho vay đảo nợ, ngân hàng lập hồ sơ để tất toán khoản nợ cũ, đồng thời lập hồ sơ vay nợ mới. Thế nhưng, khi lập hồ sơ tất toán xong nợ cũ thì khách hàng không chịu ký khế ước để nhận nợ mới. Do đó, nợ cũ về danh nghĩa đã hạch toán sổ sách xong, nhưng nợ mới thì chưa tính. Cuối cùng, ngân hàng lại nhờ đến công ty luật.

Cũng có trường hợp ngân hàng đi đường vòng, không cho DN A vay để đảo nợ, mà cho DN B vay; sau đó, DN A lấy khoản tiền ấy để đảo nợ và ngân hàng hạch toán khoản nợ xấu sang DN B. Như vậy, khoản nợ xấu đã được chuyển cho khách hàng mới, mặc dù tình trạng xấu không thay đổi. Tuy nhiên, trong quá trình đó có thể phát sinh nhiều vấn đề, ví dụ sơ suất liên quan đến tài sản bảo đảm. Trước đây, nợ xấu thật nhưng tài sản bảo đảm lại có, nhưng khi chuyển sang người thứ ba thì quá trình gán ghép tài sản bảo đảm vào các khoản nợ mới lại có vấn đề, dẫn đến tranh chấp.

Theo ông, điều cần cảnh báo nhất trong cho vay đảo nợ là gì?

Nguy hiểm hơn cả là cho vay đảo nợ khiến nợ xấu không được phản ánh đúng thực chất. Do vậy, sẽ là rủi ro dẫn đến hậu quả rất lớn nếu cơ quan quản lý và các TCTD không có giải pháp để đề phòng, xử lý kịp thời. Chẳng hạn, khoảng 85.000 tỷ đồng nợ xấu nêu trên có thể chưa được trích lập dự phòng rủi ro. Điều này là rất nguy hiểm.

Tuy nhiên, ngân hàng cũng phải rất linh hoạt. Với những DN có khả năng tồn tại, phát triển thì cần tiếp tục cho vay để DN duy trì sản xuất - kinh doanh, nếu quá cứng nhắc thì DN sẽ “chết”. Khi đó, nợ xấu cũng khó có thể thu hồi được.

Hồng Dung thực hiện

Đầu tư chứng khoán

Các tin tức khác

>   Sợ bị bẫy lãi suất (22/07/2012)

>   Tăng chỉ tiêu tín dụng: Ai đủ sức vượt rào? (22/07/2012)

>   Vì sao tăng lãi suất huy động vàng? (21/07/2012)

>   HDBank Tây Đô: Bị khách hàng “tố” câu kết lừa đảo (21/07/2012)

>   Xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng (21/07/2012)

>   Muôn kiểu xoay vốn của doanh nghiệp (21/07/2012)

>   ‘Lãi suất cho vay không quá 15% trong một năm tới’ (20/07/2012)

>   Thống đốc: 'Không thể cứu doanh nghiệp bằng mọi giá' (20/07/2012)

>   Giá vàng đợi “cú hích”, USD ngân hàng giảm liên tục (20/07/2012)

>   Cú “knock out” loại bỏ DN yếu kém (20/07/2012)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật