TS. Nguyễn Trí Hiếu: Ghìm giữ tỷ giá, không nên kéo dài
“Việc ghìm giữ tỷ giá nhằm ổn định thị trường trong một giai đoạn, hoàn cảnh kinh tế - xã hội nhất định là cần thiết, nhưng không thể kéo dài”. Đó là quan điểm của TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia ngân hàng trong cuộc phỏng vấn xoay quanh quan điểm của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) về việc neo tỷ giá thay đổi không quá 1% từ nay đến cuối năm.
 |
TS. Nguyễn Trí Hiếu |
Có ý kiến cho rằng, việc ghìm tỷ giá từ đầu năm đến nay là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế. Quan điểm của ông về vấn đề này?
Hiện tượng đô la hóa đã tồn tại từ lâu và vẫn đang hiện diện trong đời sống kinh tế ở Việt Nam. Luật pháp vẫn cho phép các thành phần kinh tế lưu giữ USD. Các ngân hàng vẫn được phép nhận tiền gửi bằng USD và cho vay bằng USD đối với một số đối tượng mà NHNN cho phép. Tỷ giá USD ổn định trong những tháng qua được xem là một điểm sáng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, việc này có thể có tác dụng phụ là khuyến khích một số thành phần kinh tế nào đó tiếp tục tìm đến USD để kinh doanh kiếm lời. Cụ thể, đối với những nhà nhập khẩu, việc ghìm tỷ giá có lợi cho họ hơn là những nhà xuất khẩu, vì nhà nhập khẩu mua USD với mức giá tương đối rẻ để thanh toán hàng nhập khẩu, trong khi các nhà xuất khẩu phải bán số USD thu được từ xuất khẩu với mức giá thấp. Bên cạnh đó, một số thành phần kinh tế có khả năng và cơ hội vay mượn bằng USD cũng được lợi, bởi sau khi vay mượn bằng USD, họ có thể chuyển sang tiền đồng và gửi khoản tiền này ở các NHTM để hưởng lãi suất rất cao. Mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bằng USD và lãi suất tiền gửi bằng VND có thể lên đến trên 10%, tỷ lệ sinh lời tuyệt vời cho một hoạt động kinh doanh rất ít rủi ro cho một thời gian ngắn. Do vậy, nếu nói diễn biến trên dẫn đến tình trạng đô la hóa thì cần phải có những nghiên cứu và thống kê cụ thể, nhưng việc giữ tỷ giá USD/VND có thể khiến tình trạng đô la hóa khó giảm. Nghĩa là trực tiếp thì không làm tăng tình trạng đô la hóa, nhưng gián tiếp thì không thuận lợi cho việc giảm đô la hóa trong nền kinh tế.
Để tiếp tục câu chuyện kinh doanh kiếm lời dựa vào mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất cho vay USD và lãi suất tiền gửi bằng VND: nếu tỷ giá tiếp tục ổn định, nhiều DN vay được USD và dùng số tiền đó chuyển sang VND gửi tiết kiệm ở NHTM lấy lãi suất cao, họ đã bỏ túi một khoản tiền rất lớn và cũng dễ dàng mua một số ngoại tệ để trả lại khoản vay vào cuối năm. Trong trường hợp này, khi mà tỷ giá tiếp tục biến động do tỷ lệ lạm phát cao và VND mất giá, thì các thành phần kinh tế nói chung sẽ phải mua USD với giá cao và sẽ phải trả giá cho cái lợi mà một bộ phận nào đó trước kia đã hưởng qua việc lợi dụng sự chênh lệch lãi suất USD và VND.
Về lâu dài, NHNN nên để tỷ giá tự định vị bởi mức cung - cầu cân bằng và cần có sự hòa nhịp với giá trị thực của đồng nội tệ. Hiện nay, độ chênh giữa tỷ giá và tỷ lệ lạm phát nghịch lý với nhau. Trong khi VND mất giá do tỷ lệ lạm phát cao thì đáng lý ra VND cũng phải có một sự mất giá gần như thế đối với USD. Trường hợp VND vững giá so với USD, trong khi VND thực sự mất giá thì việc ổn định này liệu có bền vững hay không? Có thể là không. Bởi nếu lạm phát tiếp tục ở một mức cao nào đó thì thị trường cũng sẽ tự điều chỉnh tỷ giá. Trên thực tế, tỷ giá thị trường tự do tự vận động theo cung - cầu sẽ tính tới tỷ lệ lạm phát tương thích. Khi đó, những người đang hưởng chênh lệch về lãi suất thì trong tương lai cũng phải trả một cái giá nhất định. Đó là sự công bằng.
Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Bình tuyên bố, tỷ giá nếu biến động sẽ chỉ trong phạm vi 1% từ nay đến cuối năm. Theo ông, liệu điều này có khả thi?
Tôi hy vọng là có, bởi NHNN hiện tại có một số thuận lợi để giữ ổn định tỷ giá. Thứ nhất, dự trữ ngoại hối hiện đạt xấp xỉ 8 tuần nhập khẩu, giúp NHNN có khả năng can thiệp vào thị trường một cách mạnh mẽ hơn, mặc dù vẫn còn mỏng so với chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế là 12 tuần. Thứ hai, quyết tâm của Chính phủ muốn ổn định VND thông qua Nghị quyết 11. Thứ ba, nhập siêu giảm trong mấy tháng qua, cán cân thương mại được cải thiện.
Tuy nhiên, tôi có nhiều quan ngại về khả năng giữ biến động tỷ giá trong phạm vi chỉ có 1%, bởi từ nay đến cuối năm, nền kinh tế được dự đoán vẫn tiếp tục biến động phức tạp. Giá vàng trên thế giới tăng ảnh hưởng đến thị trường vàng Việt Nam. Đặc biệt, giá vàng tăng trong nhiều trường hợp sẽ kéo giá USD tăng theo và người dân có xu hướng đi tìm nơi trú ẩn trong vàng hoặc USD. Nhu cầu USD từ nay đến cuối năm cũng sẽ tiếp tục tăng, bởi các DN vay USD trước đó phải mua USD trả nợ. Nhu cầu nhập khẩu để đáp ứng mùa vụ kinh doanh sẽ ngày càng tăng cao từ nay đến cuối năm và tình trạng nhập siêu hiển nhiên vẫn sẽ tiếp tục. Hiện tại, đã có những dấu hiệu gia tăng rõ rệt những hoạt động này. Bên cạnh đó, giá mua bán ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng và cả thị trường tự do đã bắt đầu tăng nhẹ sau một thời gian dài ổn định. Những yếu tố trên sẽ tác động mạnh lên tỷ giá và việc giữ biến động trong khuôn khổ 1% là rất khó.
Trong quá khứ, đã có giai đoạn Việt Nam ghìm tỷ giá rất dài. Bài học kinh nghiệm rút ra từ câu chuyện này, thưa ông?
Trong một nền kinh tế phát triển bình thường, vừa kiểm soát được lạm phát vừa ghìm giữ tỷ giá ở mức thấp là biểu tượng của sự ổn định. Nhưng trong nền kinh tế lạm phát cao thì việc ghìm tỷ giá chưa chắc đã là biểu hiện tốt. Khó có thể khẳng định được việc ghìm tỷ giá trong quá khứ có tác động hay không đến tình trạng lạm phát cao như hiện nay. Tôi khẳng định, việc ghìm tỷ giá trong nền kinh tế ổn định là tốt để tạo ra sự ổn định trên thị trường ngoại hối, đặc biệt tạo niềm tin cho đồng nội tệ trong một hoàn cảnh và một giai đoạn nhất định. Nhưng kéo dài việc ghìm tỷ giá trong bối cảnh lạm phát cao có tính cách nhân tạo là không thuận lợi trên quan điểm thị trường. Chúng ta có thể quay trở về lý thuyết các giá trị tương quan của mãi lực (Purchasing Power Parity) để quan sát giá trị thực của đồng nội tệ: ngoài những tác động của thị trường vàng trên thế giới và những tác động từ những hoạt động đầu cơ, giá vàng trong nước tiếp tục tăng có thể là một dấu hiệu giá trị VND đang được điều chỉnh để đạt điểm quân bình (equilibrium). Nói tóm lại, việc ghìm giữ tỷ giá nhằm ổn định thị trường trong một giai đoạn, hoàn cảnh kinh tế xã hội nhất định để tạo ra một giá trị cao cho VND là cần thiết, nhưng không thể kéo dài, mà nên để cho quy luật cung - cầu tự vận hành và điều chỉnh dưới sự định hướng hợp lý của cơ quan quản lý.
Theo ông, để neo được tỷ giá như hiện nay, cần có biện pháp gì hỗ trợ?
Đây là câu chuyện giữa con gà và quả trứng, trong đó quả trứng là lạm phát, còn con gà là tỷ giá. Chúng ta muốn con gà có trước quả trứng, nghĩa là muốn kiềm giữ tỷ giá để ổn định lạm phát, trong khi nguyên nhân của sự biến động tỷ giá là lạm phát lại đặt đằng sau. Điều này có thể đi ngược với thực tế và vấn đề chính là làm sao phải để quả trứng phải có trước con gà. Chỉ số lạm phát cần được đẩy xuống để ổn định tỷ giá.
Thời gian qua, NHNN đã sử dụng các biện pháp tích cực để giữ thị trường ngoại hối như vào đầu năm đã giảm giá VND khá mạnh cho phù hợp với diễn biến thị trường hơn; NHNN hỗ trợ các NHTM trong vấn đề quản lý dòng tiền ngoại hối; kiểm soát các điểm mua bán ngoại tệ nhỏ lẻ… Bên cạnh đó là những biện pháp kiểm soát thị trường, đầu cơ, tích trữ, làm giá, cung - cầu ảo trên thị trường. Nhưng những biện pháp hành chính đó chưa đủ. Nghị quyết 11 của Chính phủ về đầu tư công, tài khóa, chính sách tiền tệ đang được thực thi để ổn định nền kinh tế. Nhưng nghị quyết này cần phải được thực hiện quyết liệt hơn nữa, vì đây là tiền đề cho việc ổn định tỷ giá.
Quan trọng hơn cả, tôi vẫn muốn nhắc lại, có thể dần dần để cho thị trường tự vận hành thay vì các biện pháp hành chính không những đúng cho thị trường ngoại hối, lãi suất, mà còn đúng cho nhiều thị trường khác. Về lâu dài, các thị trường được điều tiết và vận hành hiệu quả sẽ là điều kiện cho phát triển bền vững, thay cho những biện pháp có tính tức thời, ngắn hạn.
Nhuệ Mẫn
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
|