Ngân hàng: Khủng hoảng ra chính sách
Có thể nói ngành tài chính, đặc biệt là ngân hàng, từ đầu năm đến nay liên tục đón nhận rất nhiều dự thảo, quy định của cả nghị định và thông tư từ cơ quan quản lý với mật độ dày đặc hơn bất cứ một ngành nào khác. Các quy định, dự thảo này trải ra ở tất cả các mảng hoạt động của ngành tài chính như vàng, ngoại hối, lãi suất, các tỷ lệ an toàn và việc góp vốn mua cổ phần của các tổ chức tín dụng...
Có dự thảo đã được ban hành và áp dụng, có dự thảo vẫn đang lấy ý kiến, và có cả dự thảo phải sửa đến gần 20 lần. Một chuyên gia đã phải thốt lên rằng bây giờ có quá nhiều dự thảo trong ngành tài chính và không thể nào nhớ hết được nữa. Trang web của Ngân hàng Nhà nước trong phần đăng về các dự thảo cần xin ý kiến cho biết hiện có 20 dự thảo cần lấy ý kiến của các thành phần liên quan, trong đó có ít nhất ba phần tư số dự thảo là liên quan trực tiếp đến hoạt động của các tổ chức tín dụng.
Câu hỏi đặt ra là tại sao các dự thảo lại liên tục được đưa ra từ đầu năm đến nay. Điều này có thể đến từ hai nguyên nhân. Thứ nhất là từ đòi hỏi thực tiễn. Việt Nam có khoảng 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa trong đó phần lớn là doanh nghiệp siêu nhỏ, và đối tượng này chưa phải là đối tượng được các ngân hàng thương mại ưu tiên phục vụ. Như vậy cần phải có một lực lượng chuyên cho các dạng doanh nghiệp này vay và dự thảo quy định việc cấp phép, tổ chức và hoạt động của các tổ chức tài chính vi mô đã ra đời để quản lý hoạt động này.
Một nguyên nhân được nhiều người đề cập hơn là khủng hoảng. Khủng hoảng là thời điểm mà các điểm yếu của nền kinh tế, vốn không thể hiện rõ trong điều kiện kinh tế ổn định, bộc lộ rõ nét, do đó xuất hiện nhu cầu cần ngăn chặn cũng như phòng tránh những vấn đề tương tự xảy ra trong tương lai.
Cuộc khủng hoảng của Mỹ cho thấy cần phải quản lý chặt chẽ hệ thống ngân hàng vì đây là xương sống của nền kinh tế. Gần đây Ngân hàng Nhà nước Việt Nam liên tục đưa ra những quy chế, quy định mới nhằm quản lý chặt chẽ hơn hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc kiểm tra gần đây của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng nhỏ và vừa cho thấy rất nhiều ngân hàng đầu tư nhiều vào việc mua trái phiếu của các doanh nghiệp trong đó có những doanh nghiệp rủi ro cao, là một minh chứng cho thấy không phải ngân hàng nào cũng có thể tự kiểm soát rủi ro của mình.
Khủng hoảng là cơ hội cho doanh nghiệp có năng lực, cũng là cơ hội để nhìn lại chính mình, thấy được những điểm yếu của nền kinh tế, và qua đó có cơ hội chỉnh sửa để tránh đi lại vết xe đổ trong tương lai. Dĩ nhiên trong tương lai sẽ phát sinh những vấn đề mới trong thực tiễn để các nhà chức trách phải tiếp tục sửa chữa, hoàn thiện hơn khung pháp lý, nhưng đó cũng là cách để thị trường từng bước vận động và hoàn thiện.
Võ Châu
tbktsg
|