Doanh nghiệp khỏe, ngân hàng sẽ khỏe
Giảm lãi suất xuống mức hợp lý (10%) giúp doanh nghiệp sống khoẻ, còn các ngân hàng thương mại (NHTM) không phải “chạy đua” lãi suất huy động vốn do được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tái cấp vốn với lãi suất thấp.
Lãi suất… “ngựa bất kham”
Thực tế hiện nay, nhiều NHTM thiếu nguồn vốn nên tìm mọi cách để huy động vốn, đẩy lãi suất lên cao khiến các NH lớn bị “rút ruột” (khách hàng rút tiền gửi NH khác) và buộc phải phòng thủ bằng cách tăng lãi suất theo.
Lãi suất huy động leo cao nhưng tổng lượng vốn huy động được trong hệ thống NH tăng không đáng kể. Nó tạo ra một vòng luẩn quẩn mà không NH nào chịu xuống nước vì sợ mất khách. Vô hình chung, chính các NH đang làm giảm lượng vốn huy động trong hệ thống.
Theo chuyên gia kinh tế Bùi Kiến Thành, tổng lượng tín dụng của Việt Nam hiện nay là khá cao, bằng 120% lần tổng sản lượng quốc nội GDP trong khi mức hoạt động tốt chỉ bình quân từ 60%- 80% GDP.
Khoảng 3 năm gần đây (2006-2009) tín dụng tăng lên đột ngột (30-40%), chưa kể bù 4% lãi suất từ vốn kích cầu (2009) và nên nay phải siết tổng tín dụng xuống. Như vậy chúng ta đang bắt năm nay phải trả giá cho những năm trước.
“Trong khi, hệ thống NH Việt Nam không đồng đều, có những NH mạnh và có những NH yếu. Có những NH “ngáp sắp chết” vì vậy phải tìm cách sống sót bằng cách tăng lãi suất huy động lên và vượt cả trần”, ông Thành nói.
Theo Quy định thì lãi suất huy động không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản, nhưng từ tháng 4.2010 thì NHNN mở lại cơ chế lãi suất thoả thuận và dẫn đến tình trạng các NHTM xé rào và lãi suất như con ngựa bất kham, không thể kiểm soát. Điều này dẫn đến hệ lụy các doanh nghiệp không dám vay vì lãi suất cao, quá sức chịu đựng của DN.
Gỡ thế nào?
Chuyên gia Bùi Kiến Thành cho biết, lạm phát không phải là nguyên nhân dẫn đến chỉ số giá tiêu dùng tăng mà do ảnh hưởng của giá lương thực, xăng dầu thế giới, điện cao…
Cũng không nên nhìn chỉ số giá tiêu dùng để định lãi suất mà dùng mọi công cụ quản lý điều hành chính sách tiền tệ để rút lãi suất xuống. Cách tăng lãi suất ở ta không hiệu quả do tổng lượng tín dụng tiêu dùng ở ta thấp.
Ông Thành lý giải, “ở các nước phát triển, vay tiêu dùng chiếm 60-70% còn lại là tín dụng doanh nghiệp. Giá tiêu dùng ở các nước này lên là do cầu kéo tức là chi tiêu quá nhiều không đủ hàng hóa, cung không theo kịp, giá tăng”.
Trong khi, nền kinh tế chạy quá nóng đã dùng tới mức tối đa nguyên liệu, lao động… vẫn không sản xuất được thêm hàng hóa. Các nước đó giảm cầu bằng cách tăng lãi suất cho vay đánh vào tín dụng tiêu dùng (60-70%) và cung không phải chạy theo cầu, nền kinh tế hạ nhiệt, giá trên thị trường sụt giảm.
Tuy nhiên, ở Việt Nam tổng lượng tín dụng tiêu dùng khoảng 10% do đó lãi suất cao sẽ làm tăng chi phí đầu vào, chi phí sản xuất tăng khiến giá tăng.
Lãi suất cao khiến các doanh nghiệp hoạt động cầm chừng thậm chí ngưng sản xuất, nếu tiếp tục kéo dài sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán nợ và có thể phá sản. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là làm sao điều chỉnh được lãi suất về mức hợp lý?
Theo ông Thành, các doanh nghiệp chỉ hoạt động tốt với lãi suất từ 10% trở xuống, trên mức này sẽ gặp khó, chi phí đầu vào cao làm giá hàng hóa bán ra trên thị trường tăng. Góp phần làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng. Sản xuất ra cũng không bán được do không cạnh tranh nổi hàng nhập khẩu rẻ từ Trung Quốc.
Giải pháp mà ông Thành đưa ra là NHNN có thể tái cấp vốn với lãi suất thấp, ví dụ ở mức 3% cho NHTM và NHTM cho doanh nghiệp vay với lãi suất chênh khoảng 7-8%. Đồng thời NHNN có cơ chế giám sát, quản lý nguồn tiền đi vào sản xuất kinh doanh theo chủ trương của Chính phủ.
Với giải pháp trên, các NHTM sẽ không phải chạy đua lãi suất, lách luật, phá rào để huy động vốn bên ngoài. Các doanh nghiệp có nguồn với tín dụng hợp lý, xây dựng doanh nghiệp mạnh lên. Và xét cho đến cùng, doanh nghiệp chính là khách hàng “ruột” của các NHTM. Doanh nghiệp khỏe thì NH cũng khỏe…
Vũ Hải
lao động
|