Thông tư 51 về thủy sản: Thuận ít, khó nhiều
Sau khi Báo SGGP và các phương tiện truyền thông thông tin nhiều bức xúc, khó khăn của các doanh nghiệp (DN) nhập khẩu nguyên liệu thủy sản về gia công, chế biến xuất khẩu khi thực hiện Thông tư (TT) 06/2010/TT-BNNPTNT (về quy định trình tự thủ tục kiểm dịch thủy sản, sản phẩm thủy sản) và TT 25/2010 (hướng dẫn việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đối với hàng hóa có nguồn gốc động vật nhập khẩu), ngày 8-9 Bộ NN-PTNT đã ban hành TT 51/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của 2 TT trên. Tuy nhiên, phần lớn khó khăn của DN vẫn chưa được tháo gỡ.
Sửa đổi rối thêm
TT 51/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của 2 TT 06 và 25 vừa được Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát ký ban hành vào ngày 8-9 đã trở thành một tài liệu nóng hổi, mang lại chút hy vọng nào đó cho các DN thủy sản tham dự cuộc họp giữa Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) với đại diện Tổng cục Hải quan, Cục Thú y, Nafiqad (Cục Quản lý chất lượng nông lâm sản và thủy sản), Cục Chế biến, Vụ Xuất nhập khẩu… diễn ra tại TPHCM ngày 9-9. Nhưng niềm hy vọng lụi tắt ngay sau đó, khi các DN đọc kỹ TT 51.
Theo TT 51 mới được sửa đổi, bổ sung, chỉ mới có một vấn đề trong TT 25 được tháo gỡ, những khó khăn trong TT 06 vẫn không hề thay đổi mà còn được “bổ sung” nhiều khoản. Những rắc rối về yêu cầu đối với lô hàng nhập khẩu, trong Điều 5 của TT 25 chỉ mới được gỡ ở nút thắt “không bắt buộc các nước xuất khẩu nguyên liệu thủy sản vào Việt Nam phải đăng ký với cơ quan quản lý Việt Nam”. Lãnh đạo một DN cho rằng, các DN xuất khẩu phải biết tuân thủ các điều kiện chất lượng nghiêm ngặt từ đầu vào, mới có thể xuất khẩu sang các nước.
Trước đây, khi đưa ra điều kiện này, chỉ có khoảng 20/80 quốc gia, vùng lãnh thổ xuất khẩu nguyên liệu thủy sản sang Việt Nam có động thái chấp nhận làm thủ tục đăng ký. Thực tế, nhiều nước từ chối thẳng việc đề nghị đăng ký thủ tục này, ngay cả Thái Lan – một khách hàng lớn trong cung ứng nguyên liệu thủy sản cho DN Việt Nam. Điều này cho thấy nhiều đối tác nước ngoài sẵn sàng từ bỏ khách hàng Việt Nam vì những khó khăn về thủ tục.
TT 51 sửa đổi, bổ sung đã gây ra không ít lo lắng cho DN nhập khẩu. Trước đây, vấn đề kiểm tra VSATTP và kiểm dịch hàng hóa được tách biệt, do Nafiqad và Cục Thú y đảm nhiệm. Nhưng TT mới đã giao 2 thủ tục này về một mối và chỉ có Cục Thú y đảm nhận. Với phân nhiệm này, hầu hết các DN đều e ngại về quy trình cũng như thời gian thực hiện thủ tục. Trong khi đó, thời gian thông quan hiện nay còn là nỗi ám ảnh đối với DN.
Bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Giám đốc Công ty Thủy sản Hải Nam (TPHCM), lo lắng, trước nay Nafiqad đảm nhận các thủ tục về VSATTP, họ đã có một quy trình, con người để đảm nhận việc này. Khi chuyển sang cho Cục Thú y, liệu đơn vị có kham nổi, có đủ bộ máy để thực hiện công việc?
Nhiều chồng chéo
Những bất hợp lý trong TT 06 và 25 đang đe dọa đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu của các DN chuyên nhập khẩu và chế biến xuất khẩu. Phần lớn DN này ở miền Bắc, miền Trung và TPHCM.
Do khan hiếm nguồn nguyên liệu tại chỗ, các DN ở những khu vực này phải chủ động tìm kiếm nguồn nguyên liệu để đảm bảo hoạt động sản xuất và hầu hết những DN này có tỷ lệ nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài lên đến 70% - 80%.
Trong đó, chủ yếu nhập khẩu các loại thủy sản như cá ngừ, bạch tuộc, mực, tôm đỏ kích cỡ lớn. Nếu những khó khăn này không được tháo gỡ, các DN có nguy cơ phải đóng cửa nhà máy và hàng ngàn lao động phải mất việc.
Bà Nguyễn Thị Thế Yến, Giám đốc điều hành Công ty Thủy sản Hải Long (Khánh Hòa), cho rằng việc ban hành các quy định đánh đồng thực hiện chung cho cả động vật dưới nước (thủy hải sản) và động vật trên cạn (thịt heo, gà) là sự hiểu lầm đáng tiếc! Bà Yến dẫn chứng, trước khi có TT 06, hàng về đến cảng DN có thể mở tờ khai và nhận hàng ngay, không phải tốn chi phí lưu kho, bãi.
Nhưng khi triển khai thực hiện TT 06 và TT sửa đổi, bổ sung 43, DN mất nhiều thời gian và chi phí. Thời gian gửi hồ sơ đăng ký ra Cục Thú y để có được công văn trả lời mất không dưới 1 tuần. Cộng thêm thời gian đăng ký với Cục Thú y vùng để làm thủ tục hải quan, DN đã mất 14 ngày mới nhận được hàng. Và với chi phí lưu container 40 - 128 USD/ngày/container (tùy hãng tàu), DN đã bỏ ra không dưới 560 - 1.792 USD cho một container hàng, chưa kể các chi phí khác. Một tháng nhập khoảng 70 - 80 container thì DN phải bỏ ra 39.000 - 143.000 USD/tháng cho thủ tục hành chính.
Điều kiện bắt buộc phải có giấy chứng nhận đáp ứng VSATTP do cơ quan có thẩm quyển của nước xuất khẩu cấp (trừ trường hợp thủy sản do tàu cá nước ngoài đánh bắt, chế biến trên biển bán trực tiếp cho DN Việt Nam) của TT 25 đang làm đau đầu các DN nhập khẩu Việt Nam.
Thực tế, do đặc thù của nguyên liệu thủy sản, các tàu đánh bắt thường cập cảng bán ở nước thứ 2, thứ 3 nên không có cơ sở để xin được giấy chứng nhận từ nước tàu đánh bắt đăng ký. Trong trường hợp này, chỉ có giấy xác nhận nguồn gốc hàng hóa từ thuyền trưởng tàu đánh bắt hay tàu thu gom.
Về vấn đề này, ông Trần Văn Linh, Tổng Giám đốc Công ty Thương mại thủy sản Thuận Phước (Đà Nẵng), cho rằng, theo Luật Hàng hải quốc tế, khi một tàu của một nước ra khỏi hải phận quốc tế, vai trò của thuyền trưởng tương đương nguyên thủ một quốc gia. Do vậy, có giấy chứng nhận từ thuyền trưởng là đủ điều kiện để đáp ứng yêu cầu nhập khẩu.
Với quá nhiều thủ tục rắc rối hiện nay, các DN chuyên nhập khẩu nguyên liệu để chế biến, xuất khẩu (tạm nhập, tái xuất) mong muốn Bộ NN-PTNT xem xét lại, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho DN.
Mỹ Hạnh
Sài Gòn Giải Phóng
|