Trả cổ tức theo thị giá: Cần có cái nhìn toàn diện hơn!
Sau khi Báo ĐTCK số ra ngày 12/4 đăng tải bài viết “Chia cổ tức bằng cổ phiếu… hết thiêng!”, chúng tôi đã nhận được nhiều phản hồi của độc giả góp ý về chính sách mới sắp ban hành. Xin giới thiệu bài viết của ông Võ Trường Sơn, dưới góc độ chuyên môn, đóng góp vào quá trình xây dựng văn bản pháp quy liên quan đến TTCK.
>> Chia cổ tức bằng cổ phiếu… hết thiêng!
Ông Võ Trường Sơn là thạc sỹ chuyên ngành tài chính. Trước đây ông là Chủ nhiệm Kiểm toán cao cấp tại Công ty Ernst&Young Vietnam và hiện nay đang giữ chức vụ Phó tổng giám đốc phụ trách tài chính của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai. | Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng có đề cập đến nghiệp vụ chi trả cổ tức bằng cổ phiếu (CP) và phát hành CP thưởng cho cổ đông hiện hữu. Có ý kiến ủng hộ, có ý kiến không ủng hộ và có cả sự lúng túng, chưa nhất quán của các cơ quan chức năng trong việc nhìn nhận nghiệp vụ này khi xem xét sủa đổi các quy định của pháp luật. Do đó, chúng ta cần có cái nhìn sâu hơn về hình thức và bản chất của các nghiệp vụ trên cùng những chính sách liên quan.
Cổ tức bằng CP “stock dividend” hay “scrip dividend” là hình thức trả cổ tức bằng cách phát hành CP mới cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ và nguồn vốn để phát hành là lợi nhuận chưa phân phối của công ty.
Ảnh hưởng của việc chia cổ tức bằng CP đối với bảng cân đối kế toán: Tổng nguồn vốn chủ sở hữu không đổi, nhưng một khoản lợi nhuận chưa phân phối được kết chuyển sang tài khoản vốn cổ phần (bằng số lượng CP phát hành để chi trả cổ tức nhân với mệnh giá CP).
Ảnh hưởng của nghiệp vụ phát hành CP thưởng đối với bảng cân đối kế toán: Tổng nguồn vốn chủ sở hữu không đổi, nhưng một khoản thặng dư vốn cổ phần và/hoặc các quỹ khác được kết chuyển sang tài khoản vốn cổ phần (bằng số lượng CP thưởng nhân với mệnh giá CP).
Chia tách CP “stock split” là hình thức tách một CP hiện hữu thành một số lượng CP mới. Hình thức này khác với hai hình thức nêu trên là mệnh giá CP được điều chỉnh theo tỷ lệ chia tách, trong khi theo hai hình thức nêu trên thì mệnh giá một CP không thay đổi. Ảnh hưởng của nghiệp vụ chia tách CP đối với bảng cân đối kế toán: Không làm thay đổi bất cứ tài khoản nào trong nguồn vốn chủ sở hữu (hình thức này chưa được phép áp dụng ở Việt Nam vì mệnh giá cổ phiếu niêm yết được quy định là 10.000 đồng).
Ảnh hưởng đến giá CP và vốn hóa thị trường
VAFI: Nếu buộc DN trả cổ tức theo thị giá là trái luật, trái thông lệ
Ngày 14/4, Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) đã có văn bản gửi các cơ quan liên quan, góp ý một số nội dung của dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 139/2007/NĐ-CP.
Theo VAFI, điểm 2 điều 26 dự thảo Nghị định: “Giá trị của cổ phiếu được sử dụng để thanh toán cổ tức phải được tính theo giá thị trường tại ngày quyết định chi trả cổ tức; và mỗi cổ đông được nhận số cổ phiếu có giá trị tương đương với số cổ tức như trường hợp công ty chi trả cổ tức bằng tiền mặt”, sẽ làm nảy sinh nhiều bất cập cả về yếu tố pháp lý và thực tế thị trường.
Xét trên thực tế, trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng là những hình thức huy động vốn trong ngắn hạn từ cổ đông, nhằm tái đầu tư mở rộng sản xuất - kinh doanh; trả cổ tức bằng cổ phiếu hay trả cổ phiếu thưởng ở tỷ lệ hợp lý theo tình hình kinh doanh của DN là mong muốn của tất cả các nhà đầu tư chứng khoán; việc này luôn làm tăng tính thanh khoản của cổ phiếu, đó là đặc tính phổ biến của những thị trường mới nổi.
Về tính pháp lý của quy định trên. Điều 8, Luật Doanh nghiệp quy định: “Doanh nghiệp có quyền tự chủ kinh doanh; quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn”. Điều 79 quy định: “Quyền của cổ đông được nhận cổ tức với mức theo quyết định của Đại hội đồng cổ đông”. Điểm 2, điều 93: “Cổ tức có thể được chi trả bằng tiền mặt, bằng cổ phần của công ty hoặc bằng tài sản khác…”. Điểm 2b, điều 96 quy định: “Đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần của từng loại được quyền chào bán, quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần”… Như vậy, điểm 2, điều 26 của dự thảo Nghị định sửa đổi là trái luật, đồng thời trái với thông lệ thế giới.
Do đó, theo VAFI, nếu quy định khống chế tổng giá trị nhận được từ việc trả cổ tức bằng cổ phiếu chỉ bằng tổng giá trị cổ tức bằng tiền mặt thì hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu gần như bị triệt tiêu và không còn ý nghĩa nữa. Đồng thời, nó cũng không ngăn cản được hình thức trả cổ tức bằng cổ phiếu thông qua những hình thức khác theo Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, như phát hành cổ phiếu mới cho cổ đông hiện hữu theo mệnh giá; phát hành quyền mua; phát hành trái phiếu chuyển đổi cho cổ đông hiện hữu với thời hạn chuyển đổi cực ngắn và với lãi suất rất cao… | Xét về hình thức thì các nghiệp vụ nêu trên là khác nhau, nhưng về bản chất thì chúng lại giống nhau, đó là sự phân chia lại giá trị công ty trên một số lượng cổ phần mới theo nguyên tắc không làm thay đổi lợi ích của các cổ đông ngay trước và sau khi chia. Ảnh hưởng của các nghiệp vụ này đến giá CP và giá trị vốn hóa trên thị trường hoàn toàn giống nhau, thể hiện như sau:
- Giá của mỗi CP được điều chỉnh giảm (pha loãng) theo tỷ lệ phát hành CP mới trên số lượng CP cũ;
- Tổng giá trị vốn hóa thị trường ngay trước và sau khi phát sinh nghiệp vụ hoàn toàn không thay đổi;
- Lợi ích của NĐT: tổng giá trị CP mà NĐT nắm giữ trước và sau khi phát sinh nghiệp vụ là không đổi.
Ví dụ:
Trước khi xảy ra nghiệp vụ:
- NĐT cá nhân A có 3.000 CP XYZ;
- Giá thị trường của CP XYZ trước khi phát hành CP thưởng/chi trả cổ tức/chia tách là 120.000 đồng/CP;
- Giá vốn bình quân của CP XYZ là 90.000 đồng/CP;
- Tổng giá trị CP là 360.000.000 đồng (3.000 CP x 120.000 đồng/CP);
Công ty XYZ phát hành CP thưởng/trả cổ tức bằng CP với tỷ lệ 2:1 (tức là cổ đông sở hữu 2 CP cũ được nhận 1 CP mới). Các dữ liệu thị trường và trong sổ sách của NĐT A thay đổi như sau:
- Tổng giá trị vốn hóa thị trường của CP XYZ không đổi;
- Giá tham chiếu của CP A vào ngày giao dịch không hưởng quyền: 80.000 đồng/CP (120.000 x 2/3);
- Số lượng CP XYZ của NĐT A sau khi phát hành xong CP thưởng: 4.500 CP;
- Tổng giá trị CP của NĐT A vẫn là 360.000.000 đồng (4.500 CP x 80.000 đồng/CP);
- Giá vốn bình quân mỗi CP XYZ: 60.000 đồng/CP ( 90.000 x 2/3).
Tác động đến thị trường
Xét về mặt toán học và lý thuyết thuần túy thì các nghiệp vụ trên không làm thay đổi giá trị CP mà NĐT đang nắm giữ. Nhưng trên phương diện thị trường thì nó có ảnh hưởng nhất định:
- Khi giá CP và EPS đã ở mức quá cao (CP quá đậm đặc), các nghiệp vụ này sẽ tạo điều kiện để NĐT nhỏ dễ dàng mua CP hơn, do giá điều chỉnh giảm và lượng cung tăng lên;
- Tạo khả năng tăng giá đối với các loại CP tăng trưởng do xóa đi tâm lý cho rằng giá CP quá cao, mặc dù giá CP có thể thấp hơn giá trị nội tại của công ty;
- Tạo động lực thúc đẩy đội ngũ quản lý công ty không ngừng phấn đầu nhằm khôi phục lại mức EPS đã pha loãng;
- Khuyến khích DN tích tụ vốn để tái đầu tư. Điều này có lợi cho sự tăng trưởng của nền kinh tế, vì các DN niêm yết thường có hiệu quả sử dụng vốn cao.
Một chính sách cần xem xét lại
Khoản 2, điều 26, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 139 quy định: “Giá trị của CP được sử dụng để thanh toán cổ tức phải được tính theo giá thị trường tại ngày quyết định chi trả cổ tức, mỗi cổ đông được nhận số CP có giá trị tương đương với số cổ tức như trường hợp công ty chi trả cổ tức bằng tiền”.
Tôi cho rằng, quy định này “thấy gần nhưng chưa thấy xa” và làm tốn thêm thời gian, chi phí của xã hội. Xin đưa ra một ví dụ mà theo đó 2 phương pháp đều đi đến một kết quả:
Ví dụ, Công ty ABC có 100 triệu CP đang lưu hành. Công ty muốn sử dụng 500 tỷ đồng từ lợi nhuận chưa phân phối để chi trả cổ tức bằng CP. Giá CP này tại ngày quyết định chi trả cổ tức là 125.000 đồng. Có hai khả năng xảy ra:
1. Theo quy định hiện hành: Công ty ABC phát hành 50 triệu CP mới theo mệnh giá và trả cổ tức cho cổ đông hiện hữu theo tỷ lệ 2/1.
2. Theo dự thảo Nghị định sửa đổi: Công ty ABC chỉ có thể phát hành 4 triệu CP (500 tỷ đồng/125.000 đồng/CP) và hạch toán như sau:
- Giảm tài khoản lợi nhuận chưa phân phối: 500 tỷ đồng;
- Tăng tài khoản vốn cổ phần: 40 tỷ đồng (4.000.000 CP x mệnh giá 10.000 đồng/CP);
- Tăng tài khoản thặng dư vốn cổ phần: 460 tỷ đồng (500 tỷ đồng - 40 tỷ đồng);
Tiếp theo, Công ty ABC sử dụng nguồn thặng dư vốn cổ phần 460 tỷ đồng để phát hành 46 triệu CP thưởng cho cổ đông theo mệnh giá và hạch toán như sau:
- Giảm tài khoản thặng dư vốn cổ phần: 460 tỷ đồng;
- Tăng tài khoản vốn cổ phần: 460 tỷ đồng;
Như vậy, chia thặng dư vốn một lần nữa, cổ đông sẽ nhận được đủ cổ phần như chia cổ tức bằng CP theo quy định hiện hành. Vì vậy, quy định như dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 139 không mang lại giá trị mới cho xã hội.
Nghiệp vụ không làm thay đổi giá trị nhưng lại bị đánh thuế
Trở lại ví dụ ở phần trước, giả sử Công ty XYZ không phát hành CP thưởng/không chi trả cổ tức bằng CP. Nếu NĐT A bán 1/3 số CP của mình thì:
- Doanh thu bán CP: 1.000 CP x 120.000 đồng/CP = 120.000.000 đồng;
- Lợi nhuận: 1.000 CP x (120.000 - 90.000) đồng/CP = 30.000.000 đồng;
- Thuế (giả sử chọn phương pháp nộp 0,1% trên giá trị giao dịch): 120.000 đồng
- Giá trị còn lại của danh mục đầu tư: 2.000 CP x 120.000 đồng/CP = 240.000.000 đồng
Nếu Công ty XYZ phát hành CP thưởng/chia cổ tức bằng CP và NĐT A bán số CP mới mà mình nhận được và giữ nguyên số CP cũ:
- Doanh thu bán CP: 1.500 CP x 80.000 đồng/CP = 120.000.000 đồng
- Lợi nhuận: 1.500 CP x (80.000 - 60.000) đồng/CP = 30.000.000 đồng;
- Thuế (giả sử chọn phương pháp nộp 0,1% trên giá trị giao dịch): 120.000 đồng
- Thuế thu nhập cá nhân đánh trên cổ tức: 1.500 CP x 10.000 đồng x 5% = 750.000 đồng
- Giá trị còn lại của danh mục đầu tư: 3.000 CP x 80.000 đồng/CP = 240.000.000 đồng
Chúng ta thấy rằng, giá trị lợi ích trong 2 tình huống là như nhau, nhưng trong tình huống thứ hai thì NĐT A phải nộp thêm số thuế là 750.000 đồng.
Hầu hết các nước trên thế giới đều không đánh thuế vào các nghiệp vụ chia cổ tức bằng CP/phát hành CP thưởng, bởi một lý do rất đơn giản là các nghiệp vụ này là một trong những phương tiện điều chỉnh lượng và giá CP. Nó tạo sự linh hoạt cho cả DN và NĐT. Bản thân nó không làm thay đổi tổng giá trị CP mà một NĐT nắm giữ ngay trước và sau khi phát hành. Thiết nghĩ, điều đó phù hợp với cơ sở lý luận của việc thu thuế và chính sách thuế.
Võ Trường Sơn
ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
|