Thứ Sáu, 24/07/2009 06:35

Mô hình nào cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam?

Trong bối cảnh nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là thay đổi mô hình mà là lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với NHNN?

Will Rogers - một nhà văn hài hước người Mỹ từng nói: “ There have been three great inventions since the beginning of time: fire, the wheel, and central banking” (tạm dịch là: “ Có 3 phát minh vĩ đại từ khi bắt đầu sự sống của loài người: lửa, bánh xe và Ngân hàng Trung ương”). Hàm ý sâu xa của câu nói này cho thấy Ngân hàng Trung ương (NHTW) có tầm quan trọng như thế nào trong lịch sử phát triển của loài người.

Nếu hệ thống ngân hàng được ví là huyết mạch thì Ngân hàng Trung ương chính là trái tim của nền kinh tế. Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển lành mạnh khi có một NHTW thực hiện tốt chức năng điều tiết hệ thống tiền tệ. Ngược lại, những trục trặc trong hoạt động của NHTW cũng có thể gây ra những cú “đột quỵ” đối với cả nền kinh tế. Vì vậy, ở bất kỳ quốc gia nào, NHTW cũng đều đóng vai trò đặc biệt trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội.

Ở Việt Nam, trước khi hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời (5/1990), hệ thống Ngân hàng hoạt động theo mô hình một cấp, tức là NHNN vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Sau khi hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời, hệ thống Ngân hàng chính thức chuyển sang hoạt động theo mô hình hai cấp; theo đó, lần đầu tiên đối tượng nhiệm vụ và mục tiêu hoạt động của mỗi cấp được luật pháp phân biệt rạch ròi:

- NHNN thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; thực thi nhiệm vụ của một Ngân hàng Trung ương - là ngân hàng duy nhất được phát hành tiền và là ngân hàng của các ngân hàng. NHNN là cơ quan tổ chức việc điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân hàng cấp 2.

- Các hoạt động kinh doanh thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế quốc dân do các định chế tài chính, ngân hàng và phi ngân hàng thực hiện.

Tháng 12/1997, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Theo đó, NHNN là cơ quan của Chính phủ và là NHTW của nước CHXHCN Việt Nam. NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.

Từ đó đến nay, ngành Ngân hàng nói chung và NHNN Việt Nam nói riêng đã có những bước tiến khá dài trên con đường phát triển. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế thế giới cũng như trong nước có nhiều biến động khó lường, những mặt hạn chế của ngành ngân hàng nói chung và của NHNN nói riêng là điều khó tránh khỏi. Nhận thức được tầm quan trọng của việc cải cách NHNN, Đảng và Chính phủ đã xác định rõ: “Tổ chức lại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với cơ cấu và tính chất hoạt động như một Ngân hàng Trung ương hiện đại, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng XHCN”

Trước tình hình đó, một vấn đề lớn được đặt ra: Thế nào là một NHTW hiện đại? Câu hỏi tưởng chừng như rất đơn giản này cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả ở các nước trên thế giới cũng chưa có một định nghĩa chính thống nào về NHTW hiện đại.

Trong khuôn khổ của bài viết này, tác giả không có tham vọng đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên mà chỉ xin đề cập đến một khía cạnh liên quan, đó là: Mô hình nào cho NHNN Việt Nam?

Đến nay, trên thế giới đã biết đến 3 mô hình NHTW: (1) NHTW độc lập với Chính phủ; (2) NHTW là một cơ quan thuộc Chính phủ; và (3) NHTW thuộc Bộ Tài chính.

Liên quan đến việc lựa chọn mô hình NHTW, nhiều chuyên gia kinh tế nhất trí rằng không có mô hình NHTW nào là lý tưởng cho mọi quốc gia. Sự lựa chọn này không hoàn toàn nằm trong ý muốn chủ quan mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội và thể chế chính trị của từng nước.

Điều đó có nghĩa rằng mỗi một quốc gia có thể vận dụng một mô hình NHTW khác nhau phù hợp với điều kiện thực tiễn của mình. Ở nước ta, NHNN là cơ quan trực thuộc Chính phủ và Thống đốc là thành viên Chính phủ.

Thời gian qua, khi bàn đến vấn đề cải cách NHNN, một số ý kiến cho rằng chúng ta nên lựa chọn mô hình NHTW độc lập với lý do cơ bản được đưa ra là NHTW càng độc lập thì mục tiêu duy trì tỷ lệ lạm phát thấp càng dễ thực hiện. Về mặt lý thuyết, điều này là đúng, tuy nhiên, tác giả cho rằng trong thời điểm hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, mô hình NHNN là một cơ quan thuộc Chính phủ như hiện nay vẫn phù hợp nhất với thể chế chính trị, đặc thù kinh tế - xã hội và hệ thống luật pháp của nước ta.

Tuy nhiên, để tăng cường hiệu quả hoạt động của NHNN với tư cách là một NHTW trong nền kinh tế thị trường, việc nâng cao tính độc lập của NHNN là hết sức cần thiết.

Nâng cao tính độc lập không có nghĩa là phải tách NHNN ra khỏi bộ máy Chính phủ. Vấn đề là cần phải trao thêm quyền cho Thống đốc, người đứng đầu NHNN trong việc chủ động điều hành các công cụ chính sách tiền tệ.

Như vậy, trong bối cảnh nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là thay đổi mô hình mà là lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với NHNN?

Theo một nghiên cứu được Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) công bố vào tháng 12/2004, về cơ bản, các NHTW trên thế giới được phân thành 4 cấp độ độc lập tự chủ gồm: (i) Độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động; (ii) Độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động; (iii) Độc lập tự chủ trong  lựa chọn công cụ điều hành; và (iv) Độc lập tự chủ hạn chế.

Để góp phần làm sáng tỏ phần nào vấn đề đặt ra, chúng ta hãy cùng phân tích từng cấp độ độc lập tự chủ nói trên và đối chiếu với điều kiện thực tế ở Việt Nam để có thể rút ra kết luận hợp lý; cụ thể là:

- Thứ nhất , độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động: Với mô hình này, NHTW có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ (CSTT), chế độ tỷ giá (nếu không theo chế độ thả nổi tỷ giá) và có quyền quyết định mục tiêu hoạt động chủ yếu trong số các mục tiêu đã được pháp luật quy định. Đây là cấp độ độc lập tự chủ cao nhất mà một NHTW có thể đạt được mà ví dụ điển hình là Hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).

Tuy nhiên, đây cũng chính là cấp độ độc lập tự chủ khó vận dụng nhất, vì nó đòi hỏi NHTW phải có uy tín cao và năng lực thực thi rất tốt thì mới có thể biến mục tiêu hành hiện thực, nhất là trong giai đoạn thực thi CSTT thắt chặt.

Bên cạnh đó, cấp độ độc lập tự chủ này cũng đòi hỏi NHTW có khả năng dự báo chuẩn xác trên cơ sở các thống kê kinh tế- tài chính, vì chỉ có như vậy thì NHTW mới có thể thực hiện được mục tiêu đề ra.

Ngoài các lý do về trình độ phát kinh tế, tính đặc thù về thể chế chính trị và hệ thống pháp luật, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, việc dự báo dựa trên các biến số kinh tế- tài chính là rất khó khăn.

Hơn nữa, năng lực thống kê và dự báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, mức độ tự chủ này là không phù hợp với NHNN ít nhất là trong thời gian trung hạn.

- Thứ hai, độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động: Ở cấp độ này này, NHTW cũng được trao trách nhiệm quyết định CSTT và chế độ tỷ giá nhưng khác với cấp độ độc lập tự chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động ở chỗ một mục tiêu hoạt động chủ yếu của NHTW được quy định cụ thể trong Luật, ví dụ như mục tiêu hoạt động hàng đầu của NHTW Châu Âu (ECB) là “duy trì sự ổn định  giá cả”. Với cấp độ độc lập tự chủ này, việc thay đổi mục tiêu duy nhất đòi hỏi phải sửa đổi Luật NHTW.

Vả lại,  tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không phù hợp với NHNN trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho phép (các biến số kinh tế- tài chính đã trở nên ổn định hơn; năng lực thống kê, dự báo được cải thiện;…);

- Thứ ba, độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành: Với mô hình này, Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu CSTT sau khi thảo luận, thỏa thuận với NHTW. Khi quyết định được thông qua, NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu trên cơ sở được trao đủ thẩm quyền cần thiết để có thể toàn quyền lựa chọn những công cụ điều hành CSTT phù hợp nhất. Tiêu biểu cho cấp độ độc lập tự chủ này là Ngân hàng Dự trữ New Zealand (The Reserve Bank of New Zealand) và Ngân hàng Canada (The Bank of Canada).

Nói cách khác, NHTW được trao đủ thẩm quyền để lựa chọn các công cụ điều hành một cách linh hoạt và phù hợp nhất nhằm đạt được các chỉ tiêu đã được thoả thuận giữa Chính phủ/Quốc hội với NHTW.

- Thứ tư, độc lập tự chủ hạn chế: Là cấp độ độc lập tự chủ thấp nhất, theo đó Chính phủ là nơi quyết định chính sách (cả về mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như can thiệp vào quá trình triển khai thực thi CSTT. Đây là một trong những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả hoạt động của NHTW, nhất là trong việc thực hiện mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền. Đây chính là trường hợp của NHNN Việt Nam hiện nay và trên thực tế thì mức độ độc lập tự chủ này đã bắt đầu bộc lộ những mặt hạn chế, bất cập.

Một số công trình nghiên cứu khác nhau cũng đã đi đến kết luận rằng những nước mà NHTW có mức độ độc lập tự chủ cao thường có tỷ lệ phạm phát thấp (Eijffinger & De Haan, 1996).

Nói chung, các nghiên cứu về NHTW thường nghiêng về ý kiến cho rằng nên giao việc xây dựng, quyết định và thực thi CSTT cho một NHTW chuyên sâu, độc lập và kiên định với mục tiêu hàng đầu là duy trì sự ổn định giá cả. Điều đó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của các tác động về mặt chính sách cũng như uy tín của các nhà hoạch định chính sách. Tất nhiên, tính độc lập của NHTW cần được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý liên quan.

Việc thiếu tôn trọng pháp luật ở một số nước là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng NHTW độc lập về mặt hình thức không có khả năng kiểm soát lạm phát và thực thi các chức năng một cách có hiệu quả.

Như vậy, theo quan điểm của tác giả, cấp độ “Độc lập tự chủ trong lựa chọn công cụ điều hành” tỏ ra phù hợp nhất với NHNN Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như trong nhiều năm tới, đặc biệt là trong bối cảnh việc điều hành CSTT ở nước ta đã từng bước được đổi mới theo nguyên tắc thị trường, dần loại bỏ các công cụ trực tiếp và sử dụng các cụng cụ gián tiếp.

Hơn nữa, mức độ độc lập tự chủ này cho phép dung hoà giữa mục tiêu của CSTT với các mục tiêu của chính sách kinh tế trong một giai đoạn nhất định.

những lập luận nói trên, tác giả cho rằng trong thời gian trước mắt, chúng ta không nên đặt vấn đề lựa mô hình NHTW độc lập với Chính phủ. Thay vào đó, để đảm bảo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ và mục tiêu đề ra, NHNN Việt Nam cần được trao quyền độc lập, tự chủ hơn trong việc đưa ra các quyết định chính sách mà không có sự can thiệp từ phía các cơ quan nhà nước hay các áp lực chính trị; đồng thời được quyền kiểm soát tất cả các công cụ có ảnh hưởng tới các mục tiêu của CSTT, nhất là về vấn đề chống lạm phát, hạn chế việc tài trợ trực tiếp cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ.

Bên cạnh đó, cũng cần trao cho NHNN quyền chủ động quyết định về tài chính, tức là tự chủ về ngân sách. Có như vậy thì NHNN mới có đủ nguồn lực để thực thi chức năng, nhiệm vụ một cách có hiệu quả nhất.

Thời gian qua, nhiều nhà kinh tế cả trong và ngoài nước đã đưa ra khuyến nghị về cải cách Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về vấn đề này, Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của CTV Doãn Thái Hưng.

Doãn Thái Hưng

Tuần Việt Nam

Các tin tức khác

>   TPHCM được lập công ty tài chính (24/07/2009)

>   Bảo hiểm phi nhân thọ sẽ tăng 25% (24/07/2009)

>   Sớm phá băng thị trường ngoại tệ (24/07/2009)

>   Lãi cao nhưng ít người gửi (24/07/2009)

>   Đấu thầu trái phiếu Công ty Đầu tư phát triển Đường cao tốc Việt Nam (23/07/2009)

>   BIDV và Vietnam Airline đầu tư vào Campuchia (23/07/2009)

>   Giảm 5% thuế nhập khẩu xăng máy bay (23/07/2009)

>   HDBank được mở chi nhánh tại Đồng Nai và Bà Rịa–Vũng Tàu (23/07/2009)

>   Công bố kết quả kiểm toán: “Ông lớn” sai nhiều (23/07/2009)

>   Bảo hiểm xe cơ giới: Mua nhưng sợ dùng (23/07/2009)

Dịch vụ trực tuyến
iDragon
Giao dịch trực tuyến

Là giải pháp giao dịch chứng khoán với nhiều tính năng ưu việt và tinh xảo trên nền công nghệ kỹ thuật cao; giao diện thân thiện, dễ sử dụng trên các thiết bị có kết nối Internet...
Hướng dẫn sử dụng
Phiên bản cập nhật