Loại trừ lợi ích bán USD chui
Mua/bán/vay vốn USD vẫn là chủ đề nóng trong bối cảnh các doanh nghiệp đang phải đương đầu với tình trạng khan hiếm ngoại tệ.
Một trong những biện pháp để giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay trên thị trường ngoại hối được ông Nguyễn Văn Bình - Phó Thống đốc NHNN - đưa ra là: "Các NH phải cùng nhau đưa mặt bằng lãi suất (LS) huy động USD xuống thấp hơn nữa (từ 1 đến 2% là tối đa). Khi đó mới có điều kiện để đưa mặt bằng LS cho vay USD xuống mức thấp hơn (theo tính toán sẽ ở mức từ 1,5% đến 3,5%). Điều này sẽ tạo chênh lệch lãi suất giữa vay vốn USD và VND ở mức từ 2% đến 3% - điều kiện hấp dẫn hơn để khuyến khích các DN vay vốn USD thay vì chỉ đi mua USD".
Khó khắc phục được tình trạng bán chui USD
Về giải quyết tình thế ngắn hạn thì biện pháp mặt bằng LS huy động xem ra cần thiết. Trong khi nguồn vốn VND đang thiếu, nguồn vốn USD thừa, tận dụng được nguồn USD sẽ làm tăng lực cho chính sách kích cầu hơn nữa. Nhưng nếu DN sử dụng vốn USD thì có ba trở ngại: (i) Rủi ro tỉ giá; (ii) Lãi vay USD chưa được hỗ trợ lãi suất (HTLS) nên không rẻ hơn vay vốn bằng VND sau khi đã có HTLS; (iii) Lợi ích tạm thời khi xuất hiện khả năng bán ngoại tệ chui của DN (bán vượt mức khống chế biên độ 5% mà NHNN quy định).
Ví dụ: DN vay 18 tỉ VND (giả sử tỉ giá 1USD = 18.000 đồng) để xuất khẩu (XK) gạo với LS hiện là 8,5%/năm, được HTLS nên DN chỉ còn phải trả 4,5%. Nếu vay 6 tháng, quay 2 vòng thì chi phí lãi vay phải trả: [(18 tỉ X 8,5%):12 ] x 6 tháng = 765 triệu đồng.
DN vay mua gạo xong là xuất. Chỉ tính giá vốn DN thu được 1 triệu USD trong khi chênh lệch giữa giá được phép và giá bán chui hiện có mức dao động bình quân từ 200-300VND/USD, thì nếu bán chui cứ 1 triệu USD, DN sẽ thu được khoản chênh lệch tỉ giá là 220 triệu đồng.
Thực tế XK gạo có vòng quay khoảng 1,5 tháng là cùng, nên chi phí trả lãi vay VND còn thấp hơn nữa, nhưng chênh lệch tỉ giá gần như không đổi. Như vậy, DN quay càng nhiều vòng vốn lưu động, thu ngoại tệ về càng sớm thì càng có lợi ích cao. Nguồn thu chênh lệch tỉ giá càng gần với lãi vay NH mà DN thực chất phải trả.
Bất cứ ai làm chủ DN cũng không dại gì mà không vay VND, bởi vay USD làm sao có khoản chênh lệch tỉ giá này. Đó là chưa kể nếu DN khi có bộ chứng từ hàng xuất đem chiết khấu lấy USD, mục đích làm cho lãi vay được chuyển từ VND sang USD thì chi phí trả lãi vay NH còn thấp hơn nữa, rồi dùng vốn chuyển khoản USD đó bán cho NHTM khác với tỉ giá cao lại tiếp tục lợi hơn. Sau này có nguồn thu ngoại tệ từ nước ngoài về, NHTM thu, DN chẳng mất gì.
Lợi ích của DN vay VND to lớn như vậy thì khó có chính sách nào khiến nhu cầu vay vốn USD được tăng lên. Lợi ích tạm thời này sẽ hết khi NHNN cấm triệt để việc mua bán ngoại tệ giá cao của toàn hệ thống NHTM, nếu không thực hiện được phải bơm ngoại tệ từ nguồn dự trữ ngoại hối để can thiệp thị trường.
Cân nhắc kết hối có điều kiện và điều chỉnh tỉ giá
Mấy ngày qua, thị trường tài chính lại nóng lên với hiện tượng tăng LS huy động VND, mà dư luận cho rằng để chống nguy cơ tái lạm phát hiện đang lộ rõ và để có thêm nguồn tăng cung VND cho kích cầu.
Một chuyên gia tài chính dự đoán, các NHTM đang tăng lãi suất huy động VND lên cao là những NH huy động được USD nhưng không cho vay được, dư nợ ngoại tệ quá thấp. Như thế việc tăng LS huy động VND hiện nay có thể do nhiều yếu tố như: Đáp ứng nhu cầu tăng tín dụng VND hiện đang lớn; đảm bảo khả năng thanh khoản cho NH (việc tăng LS huy động sẽ dẫn đến tăng LS cho vay)...
Dù nguyên nhân nào đi nữa thì việc tăng khá mạnh LS huy động VND cũng làm ảnh hưởng không tốt đến chính sách kích cầu mà Chính phủ và NHNN đang theo đuổi. Nếu các cơ quan quản lý không làm cho lợi ích bán USD theo tỉ giá chui bị mất đi, thì chỉ còn cách nâng LS VND so với hiện nay để chi phí sử dụng vốn VND ngang bằng chi phí sử dụng vốn USD.
Nhưng như vậy sẽ khiến các DN sản xuất kinh doanh nội địa (không có nguồn thu ngoại tệ) bị thiệt vì họ chịu lãi vay VND tăng lên. Điều này làm cho giải pháp vốn kích cầu cho các DN nội địa thuần túy khó đạt được hiệu quả.
Vậy thì chỉ có cách làm dễ nhất, lại được luật cho phép đó chính là quản lý thị trường ngoại hối cho đi vào đúng khuôn khổ, mua - bán USD thực tế của các NHTM lẫn DN phải bằng với biên độ mà NHNN cho phép.
Hoặc thực hiện kết hối ngay 100% khoản thu ngoại tệ có được cho những DN đã vay vốn VND xuất khẩu thu ngoại tệ, còn nếu DN nào không vay HTLS bằng VND thì thôi. Giải pháp này sẽ giúp thị trường hiểu rõ kết hối chỉ là nhằm tước đoạt lợi ích bất hợp pháp do DN bán ngoại tệ chui giá cao mà thôi, đồng thời cũng là thực hiện trách nhiệm của DN đối với nền kinh tế, bởi họ đã hưởng lợi ích từ HTLS rồi, thì nay phải bán ngoại tệ cho NH để NH có nguồn bán cho các DN nhập khẩu, nhập phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu... phục vụ SX chung.
Giải pháp kèm theo là NHNN nên khuyến cáo Chính phủ tăng LS bán trái phiếu ngoại tệ riêng cho các NHTM. Nhà nước chịu thiệt thêm một chút, nhưng cũng giúp cho NHTM tiêu thụ được lượng vốn USD mà NHTM đã huy động được hiện đang không có đầu ra.
Một giải pháp nữa mà NHNN cũng nên cân nhắc là kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhập khẩu rất lớn. Nếu không ổn định tỉ giá, DN nhập khẩu lại bị rủi ro tỉ giá lớn. Việc ổn định cung-cầu ngoại tệ sẽ làm bớt rủi ro tỉ giá khi DN vay trả nợ bằng VND (DN bỏ tiền VND mua USD trả nợ vay cho NH). Vì vậy rất cần sử dụng tỉ giá linh hoạt.
Nên nới biên độ lúc này giúp DN tăng bán hàng, giải phóng hàng tồn kho. Đến khi có dấu hiệu nền kinh tế hồi phục, phải hạ tỉ giá xuống, để hỗ trợ việc nhập khẩu nguyên vật liệu, cho sản xuất và gia công hàng XK trong chu kỳ vòng quay vốn mới của nền kinh tế.
Cẩm Vân - Đại An
lao động
|