Đông Nam Á cần thay đổi mô hình thương mại
Những gói kích cầu đang triển khai tại nhiều nước Đông Nam Á sẽ không đủ sức bảo vệ các nền kinh tế này khỏi hệ quả của sự thay đổi cơ bản trong mô hình thương mại đang là nền tảng của cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay.
Các nước dựa vào xuất khẩu đang đi theo những con đường hơi khác nhau trong nỗ lực chống lại sự suy giảm kinh tế toàn cầu, nhưng tất cả các gói kích thích đều dựa trên giả thuyết chung rằng kinh tế thế giới sẽ hồi phục vào quí 3 năm nay và mọi việc sẽ trở lại bình thường.
Tuy nhiên, các nhà phân tích kinh tế nhận định, cuộc khủng hoảng hiện thời không phải là một đợt suy thoái theo chu kỳ mà là một cuộc điều chỉnh cơ cấu; các nền kinh tế dựa vào xuất khẩu của Đông Nam Á cần phải hành động nhanh để thích nghi với thực tế mới, trong đó Mỹ và Âu châu không còn là thị trường chủ yếu nữa.
Supavud Saicheua, Giám đốc điều hành Công ty chứng khoán Phatra tại Bangkok, nhận xét: “Chúng ta đã tiến nhanh theo hướng bán những gì Mỹ và Âu châu muốn chứ không phải những gì người châu Á cần. Giờ đây chúng ta phải điều chỉnh. Về lâu dài, người châu Á phải tiêu thụ nhiều hơn, người Mỹ và Âu châu ít hơn”.
Cho đến nay ở Đông Nam Á đã có vài giải pháp kích cầu khác nhau: Việt Nam hỗ trợ các ngành công nghiệp, Thái Lan cố giảm nhẹ tác động đến những tầng lớp nghèo khó và Singapore thì tổng hợp cả hai giải pháp trên.
Theo ông Tai Hui, trưởng bộ phận nghiên cứu kinh tế Đông Nam Á của Ngân hàng Standard Chartered ở Singapore, các gói kích cầu sẽ có hiệu quả đối với các nền kinh tế lớn của khu vực mà chỉ có tác động rất giới hạn ở các nước nhỏ hơn.
“Kích cầu sẽ tốt ở Trung Quốc và Ấn Độ, song ở các nền kinh tế nhỏ hơn như Hồng Kông và Singapore, cho dù bạn có bỏ ra bao nhiêu tiền cũng không đủ bù đắp do sự suy giảm ở Mỹ và Âu châu gây ra”, ông Hui nói và thêm rằng, các gói kích cầu “giỏi lắm chỉ giúp chặn đứng đà suy thoái”.
Đối với những nước ở giữa, tầm cỡ của vấn đề mà họ đương đầu đang làm nhụt đi các tham vọng của chính phủ. Tân Bộ trưởng Tài chính Thái Lan, Korn Chatikavanij, nói rằng gói kích cầu 3,3 tỉ đô la Mỹ của chính phủ ông được thiết kế chỉ để “cầm máu” cho đến khi kinh tế toàn cầu hồi phục lại, và nỗi lo lớn nhất của ông là sự hồi phục đó sẽ không diễn ra sớm như kỳ vọng.
Một vài nhà phân tích nói rằng các gói kích cầu đặt ra hai vấn đề: chúng sẽ tác động như thế nào đến nhu cầu nội địa? Và nếu có hiệu quả, liệu chúng có cứu được ngành xuất khẩu của khu vực hay không?
So với phần thế giới còn lại, châu Á có tỷ lệ tiết kiệm rất cao và có vẻ như vẫn đang tăng lên, một phần do tâm trạng bấp bênh hiện thời. “Nhu cầu nội địa đã bắt đầu co lại ngay cả trước khi ta nhìn thấy xuất khẩu sụp đổ”, Prakriti Sofat, nhà kinh tế của Ngân hàng HSBC tại Singapore, nhận xét. Tỷ lệ tiết kiệm cao có nghĩa là người tiêu dùng sẽ đem cất giữ một số tiền kích cầu của đất nước và như vậy làm hạn chế hiệu quả của các gói kích thích mà trong một số trường hợp là khá nhỏ bé.
Nhiều nhà phân tích nhận định rằng, cho dù các gói kích thích có khả năng làm sống lại nhu cầu nội địa thì nhu cầu đó cũng không phù hợp với danh mục hạn hẹp những sản phẩm công nghiệp mà lâu nay các nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu của Đông Nam Á làm ra với số lượng lớn, chẳng hạn như xe tải và ổ đĩa cứng của Thái Lan hay giày dép và đồ gỗ nội thất của Việt Nam.
Nếu suy thoái chỉ là một vấn đề ngắn hạn thì các công ty xuất khẩu có thể vượt qua cơn bão với sự trợ giúp của chính phủ, nhưng theo nhà phân tích Supavud của Công ty chứng khoán Phatra, một sự chuyển dịch mang tính cơ cấu dài hạn của kinh tế toàn cầu có nghĩa là nhu cầu tiêu thụ hàng xuất khẩu của châu Á sẽ không bao giờ quay trở lại với tình hình trước khủng hoảng.
Ở Đông Nam Á, nỗi đau này có vẻ không đồng đều. Ở cực này là các nước như Indonesia – nền kinh tế lớn nhất khu vực. Các nhà kinh tế cho rằng Indonesia sẽ khá hơn phần lớn các nước còn lại, nhờ nước này ít phụ thuộc vào xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng công nghiệp. Tăng trưởng kinh tế của Indonesia dự kiến sẽ giảm từ 6% năm ngoái xuống 4,5% năm nay nhưng triển vọng lâu dài của nền kinh tế này được coi là tương đối sáng sủa. Ở cực đối lập là Singapore, nơi xuất khẩu đã co cụm lại và đã rơi vào suy thoái.
Nhưng ông Hui, nhà kinh tế của Ngân hàng Standard Chartered cho rằng, Singapore đang thể hiện con đường tiến về phía trước. Trong nhiều năm qua, nước này đã cố tăng cường quan hệ với các thị trường lớn ở châu Á; từ năm 2005 Singapore đã ký kết các hiệp định thương mại với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc và nhiều nước khác nữa.
Ông Hui cảnh báo, trong lúc tập trung tìm cách sinh tồn, các doanh nghiệp Đông Nam Á cũng cần nhìn về phía trước. “Sẽ đến lúc thị trường và người tiêu dùng châu Á có sức hấp dẫn hơn. Nếu quá tập trung vào Mỹ và châu Âu, các doanh nghiệp sẽ để vuột mất cơ hội lớn”, ông Hui nói.
Huỳnh Hoa
thời báo kinh tế sài gòn, Washington Post
|